Bi hài đồng cốt
Hầu đồng, vốn là một nét sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có từ rất lâu đời. Tuy nhiên, gần đây, hầu đồng đã bị biến tướng và mang màu sắc mê tín.
Lễ hầu đồng thường rất tốn kém
Những người tự xưng là “đồng cô”, “đồng cậu” đã biến nó thành một thế giới rộn ràng tiếng nhạc, nỉ non lời hát văn, nghi ngút khói hương và ngùn ngụt những đàn đại mã bị hóa thành tro; thế giới của những đền, những phủ, những mê muội của những con nhang, đệ tử trong các buổi hầu đồng, khấn bóng. Lao vào thế giới đó, ngoài những người làm ăn buôn bán, còn có cả những người được gọi là trí thức…
Giang hồ gác kiếm làm… “thầy”
Nguyễn Văn H (SN 1977, ở Từ Liêm, Hà Nội) là con út trong một gia đình có 6 anh em. Thời thanh niên, H đã từng là một trong những tay anh chị có tiếng ở ga Trần Quý Cáp. Dưới trướng hắn, lúc nào cũng có đến vài chục đàn em mặt mày bặm trợn, sẵn sàng phục vụ. Ai cũng nghĩ cả đời hắn sẽ gắn với kiếp lưu manh chuyên nghiệp. Nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra mà ngay cả hắn và gia đình cũng không nghĩ tới. Đó là chuyện hắn “rửa tay, gác kiếm” để đi theo đường tu hành. Tất cả bắt đầu từ lần hắn mua vé tàu hộ một nhà sư vào Huế.
Chả hiểu sau lần gặp gỡ đó, hắn được nhà sư giác ngộ pháp thế nào, mà chỉ biết là vài tháng sau, hắn đã có mặt trên chuyến tàu từ Hà Nội vào Huế để “tầm sư học đạo”. Trải qua 8 năm ăn chay, niệm Phật, thấy mình vẫn không thể rũ bỏ bụi đời, hắn chắc mẩm mình không có duyên với Phật. Sau đó, chính nhà sư nhận hắn vào chùa đã cho hắn tiền để trở lại Hà Nội.
Về nhà một thời gian, rồi chỉ qua một giấc mơ, thế là ngày hôm sau, hắn tìm đến đền Ghềnh, Gia Lâm. Khi lễ xong, hắn được ông đồng già ở đây đồng ý cho hắn làm chấp tác, thay hương, dầu trong đền. Cũng không hiểu tại sao 8 năm tu hành vào tận xứ Huế, hắn chẳng thể nào nhớ nổi một trang kinh Phật, nhưng mới làm chấp tác tại đền Ghềnh vài ngày, hắn đã thuộc làu làu các vị thánh, ông hoàng, bà chúa.
Chỉ ít ngày sau, hắn được ông “thầy” già truyền cho cách mở phủ, lập điện. Như có Thánh giáng, ông Hoàng nhập, H nhảy đồng lập phủ trôi chảy, khéo léo đến khó tin. Cho tới bây giờ, mới gần 40 tuổi mà H đã là thầy đồng nổi tiếng trong giới đồng bóng khắp trong Nam ngoài Bắc.
Trừ khi ngồi đồng lúc “Thánh giáng”, còn ở ngoài đời, không ai có thể đoán được tuổi của người đàn ông tự nhận là “cô” này. Quần áo đồ hiệu chính cống, nhẫn vàng đeo đầy tay, móng tay lúc nào cũng được sơn sửa một cách điệu đà, kỹ càng, và tất nhiên, điện thoại “cô” dùng cũng phải là đời cao, gọi không tiếc tiền. Mới chỉ mỗi việc sắp lịch và đi dự những buổi hầu của các đồng trẻ thôi cũng đủ làm “cô H” bận rộn đêm ngày.
Video đang HOT
Hầu đồng đã có từ rất lâu đời
Tuy ít hơn “cô H” một tuổi, nhưng cũng nổi tiếng không kém về tài mát tay mở phủ, kêu thay, cầu đỡ với những động tác nhảy đồng dẻo không ngờ, đó là “Thịnh mát” ở Thanh Xuân, Hà Nội. Không giống như “cô H”, phải đến lúc thanh niên mới phát hiện ra mình có căn, có quả mới quyết định đi theo Thánh, mà theo lời mẹ của “Thịnh mát” thì lúc mới 6 tuổi, thằng bé Thịnh – con trai thứ 3 trong gia đình bà đã lấy vỏ bao hương để ngậm cho môi đỏ. Lúc đầu, bà chỉ nghĩ đó là chuyện của trẻ con. Nhưng càng ngày, bà càng thấy con trai mình không như những bé trai cùng phố. Thịnh chỉ thích chơi những trò cùng con gái như nhảy dây, bán đồ hàng, đặc biệt là Thịnh rất thích búp bê. Điều làm bà bàng hoàng nhất là khi bà phát hiện ra trong người thằng con trai của mình lúc 16 tuổi có một bộ đồ của phụ nữ. Vừa xấu hổ, hoang mang, vừa thương con, bà và những người anh của Thịnh đã khuyên răn, kể cả đánh đập cậu. Sau một thời gian thấy không có kết quả gì, bà đành phải nuốt nước mắt chiều lòng con, để cho nó theo nghề đồng bóng. Bà tự an ủi mình rằng “nó bị như vậy cũng là gánh quả kiếp cho cả nhà rồi!”
Bây giờ, ngay tại tầng 3 của nhà bà là một gian điện thờ tam tòa tứ phủ khá to đẹp và sạch sẽ do con trai bà là “cô Thịnh” ngày ngày đèn nhang, hương nến. Hiện tại, thu nhập của cả gia đình bà trông cả vào lộc thánh của “cô”. Sau một thời gian dài kỳ thị, nay những người sống ở gần đó, từ người già đến trẻ con, đều gọi người đàn ông gần 40 tuổi có dáng đi nhẹ nhàng, giọng nói khó phân biệt là giọng nam hay nữ bằng “cô”. Nếu có ai lỡ mồm gọi bằng bác, chú, hay anh thì thế nào cũng bị “cô Thịnh” té tát cho một trận nhớ đến già.
“Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay”!
Nếu không tận mắt chứng kiến một buổi hầu đồng mở phủ thì không ai có thể tưởng tượng hay tin được rằng: Để có được một buổi hầu đồng hoàn hảo, khổ chủ phải bỏ ra bao nhiêu tiền mua mã, sắm lễ, trang bị quần áo, thuê phường hát văn. Tuy đã chuẩn bị sẵn tinh thần, nhưng chúng tôi cũng không thể nghĩ được rằng, một buổi hầu đồng lại quy mô và kéo dài đến như vậy. Giới hầu đồng vẫn có câu “tuỳ tiền biện lễ” và phải chứng kiến tận mắt mới hiểu được sự vô cùng trong giới này.
Thông thường, để chuẩn bị được một buổi hầu đồng ở nhà “cô Thịnh” hoặc “cô H” thì trước đó một tuần, các thợ mã chuyên nghiệp đã phải đến đây tập kết nguyên vật liệu để làm một đàn đại mã, có tên Long Tu Phượng Mã. Long Tu Phượng Mã bao gồm ba ngựa: Đỏ, vàng và trắng. Mỗi con đều to hơn những chú ngựa vẫn chạy trong rạp xiếc, một voi xám với tỉ lệ 1/1 so với những chú voi thật, ngoài ra còn có một thuyền rồng dài 3,5m rộng 0,8m được trang trí cầu kỳ.
Tất cả những thứ trên được đặt ở sân đền vì chúng quá to để có thể đưa được vào bên trong hậu điện, nơi gần với các Thánh, các Ngài, ông Ba, ông Bẩy. Đền là nơi ngự trị của bốn toà sơn trang với khoảng 60 hình nhân cao từ 1,2 – 1,6m có bốn màu: Đỏ, xanh, vàng, trắng, tượng trưng cho bốn hướng. Đi cùng với đàn mã có giá lên đến vài chục triệu đồng này là 13 suất lộc tố hảo thuộc loại lộc ngon, đắt tiền để trong khi nhảy, đồng cô sẽ phát lộc cho khách dự; có tới 13 bộ quần áo của các ông hoàng, bà chúa, cô Bơ, ông Bốn. Sau mỗi một giá đồng, đồng cô lại thay một lần quần áo. Nhưng những thứ như trên cũng chỉ là điều kiện cần.
Để làm nên một buổi nhảy đồng thần bí, một thành phần không thể thiếu được là đoàn hát văn với đầy đủ đàn, sáo, trống, nhị. Khi “cô” bắt đầu khấn vái thì thủ nhang, đồng đền, thủ anh, lính chị xin phép được hầu. Ngài pháp sư cũng khẩn trương tuyên sớ. Sớ có nội dung bao gồm ngày, tháng, kêu cầu cho ai, địa chỉ ở đâu, cầu về việc gì. Sau đó là một quá trình hầu với những màn khua hương, múa lửa, nhảy nhót rất điệu nghệ của cô đồng. Cô đồng dâng tiền, vỗ gối và cứ mỗi lần nghe hát văn hay, cô lại vỗ vào chiếc gối có năm lớp thêu hình rồng, từ tay cô bay ra những tờ tiền có mệnh giá lớn. Trong suốt khoảng 3 tiếng đồng hồ lên đồng, cô đồng đã thay 13 bộ quần áo, phát 13 mâm lễ và cũng từng ấy lần nhảy múa quay cuồng, châm đến 4 bao thuốc để hút và phát lộc. Có một điều rất lạ là, toàn bộ con nhang, cô đồng ai ai cũng hút được thuốc lá, bất kể là nam hay nữ.
Buổi hầu kết thúc khi toàn bộ 13 mâm lễ với hoa quả, bia, các đồ ăn khác được phát cho khách dự. Hàng chục triệu tiền mã đã được hoá vàng hết, trả lại vẻ rộng rãi vốn có của nhà đền. Ước tính, số tiền mà người hầu đồng đã phải chi ra không dưới 20-30 triệu đồng. Không biết mức giá này là đắt hay rẻ đối với họ nhưng sau buổi hầu đồng này, ai cũng thấy hớn hở ra mặt.
Nhiều người cho rằng, chi phí cho một buổi lên đồng là rất tốn kém nên chỉ những người làm ăn buôn bán, kinh doanh thiếu hiểu biết mới là con nhang, đệ tử của những cô đồng, bà bóng. Suy nghĩ đó hoàn toàn sai lầm bởi lên đồng còn thu hút được cả những người giàu có. Người ta đua nhau đi tán lộc khiến cho bản danh sách của các “thầy” ngày một dài hơn. Cũng vì thế mà không biết bao nhiêu người đã hao tiền, tốn của, khánh kiệt tài sản vì niềm tin mê mụ vào đồng cốt.
Theo Xahoi
Ngôi mộ phát ra năng lượng chữa bách bệnh ở Thanh Oai, Hà Nội
Thời gian gần đây, thông tin về một ngôi mộ có "phép màu", phát ra năng lượng kỳ lạ có khả năng chữa bách bệnh được lan truyền khắp nơi.
Hàng nghìn người đã kéo đến đây với mong muốn được hấp thu nguồn năng lượng kỳ diệu này
Chỉ cần ngồi thiền cạnh mộ
Từ Hà Đông (Hà Nội), xuôi theo Quốc lộ 21B, chúng tôi tìm về xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai. Không khó để tìm thấy ngôi mộ, vì nó được xây dựng khá lạ, trên một mảnh đất rộng tới 300m2 giữa cánh đồng với những hàng cau thẳng tắp và cây cối um tùm. Khi chúng tôi đến, một buổi sáng giữa tuần đã thấy một hàng dài ô tô, taxi đỗ trên đường dẫn vào khu mộ. Gia chủ của ngôi mộ kỳ lạ này là bà Bùi Thị Sinh, và người nằm dưới mộ chính là thân sinh của bà - cụ Trưởng Cần (Nguyễn Đức Cần). Bà Sinh là người đã trông nom, hương khói cho ngôi mộ cụ Cần suốt ba chục năm qua. Theo bà Sinh, sinh thời, cụ Trưởng Cần tham gia hoạt động cách mạng và chữa bệnh từ thiện cho người dân. Khi cụ Cần qua đời vào năm 1983, chính những người bệnh nhân từng được cụ Cần chữa khỏi đã cùng nhau đóng góp hàng trăm triệu đồng đưa linh cữu của cụ Cần về an táng vĩnh cửu tại đây.
Lý giải về việc nhiều người tới đây cúng lễ, ngồi thiền xung quanh mộ phần của cụ Cần, bà Sinh cho biết: "Từ khi cụ nhà tôi về yên nghỉ tại đây, gia đình vẫn hàng ngày chăm nom ngôi mộ cẩn thận, mùng 1, ngày rằm đều ra thắp hương, cúng lễ. Riêng những người tới đây là vì mến mộ tài đức của cụ tôi, có người là bệnh nhân cũ, có người là bệnh nhân ở tứ xứ về đây để chữa bệnh. Gia đình không cấm đoán, ngăn cản người tới tế lễ. Đó là tấm lòng của người đã khuất với người còn sống. Giờ đây, hàng ngày chúng tôi đều có mặt để hướng dẫn họ vào tế lễ". Bà cũng giải thích, do hôm nay là ngày thường nên số người đến còn ít, chứ vào những ngày cuối tuần thì khách đến thắp hương, thiền cả trăm người, chật cả khuôn viên.
Khi chúng tôi có mặt thì ngay trong khuôn viên ngôi mộ, hơn chục người vẫn quây xung quanh, hướng về phía mộ phần trong tư thế ngồi thiền. Có người chắp tay khấn vái, mắt lim dim như thể đang tiếp nhận nguồn năng lượng "kỳ lạ" từ ngôi mộ. Một người đàn bà trung tuổi ở tận Nha Trang cất công ra tận Hà Nội để được ngồi trước mộ cụ Trưởng Cần nói với chúng tôi: Do có người quen đã từng đến thuê nhà ở đây, hàng ngày ra thiền tại mộ cụ thấy sức khỏe rất tốt nên bà cũng tranh thủ đến thăm mộ cụ. Bà còn bảo: "Lúc ngồi thiền, tôi thấy một vầng màu đỏ cam cứ nở bung ra như những bông hoa ấy". Sống cách ngôi một không xa, bà Nguyễn Thị Hải (xã Tam Hưng, Thanh Oai, Hà Nội) cho biết, bà bị tiểu đường, tim mạch, khớp... vẫn đang dùng thuốc của bệnh viện nhưng cũng tới đây để cúng lễ với mong muốn bệnh nhanh khỏi. "Cứ lúc nào đồng áng rảnh rỗi, chúng tôi lại tới đây cúng lễ, trước để tỏ lòng thành kính với tiền nhân, nhưng cũng là để thử xem bệnh tình có thuyên giảm. Chưa biết hiệu quả hay không nhưng ai cũng cảm thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên". Tương tự, bà Bạch Tuyết (Đống Đa, Hà Nội) cũng cho biết, mình bị ung thư phổi đang điều trị tây y. Từ khi nghe tin về ngôi mộ cụ Trưởng Cần có khả năng chữa bệnh, tháng vài ba lần bà lên đây. "Chưa biết mộ cụ có chữa bệnh được không, nhưng về đây, không khí trong lành cũng đã rất tốt cho sức khỏe rồi. Tôi chưa đi khám xét lại xem thật ra bệnh của mình có đỡ thật hay không, nhưng khách quan mà nói thì tôi thấy mình có khỏe hơn" - bà Tuyết cho biết.
Trong khuôn viên ngôi mộ, một hình ảnh "lạ" cũng đập vào mắt chúng tôi, đó là một chiếc lều được căng ngay cạnh ngôi mộ, trong lều là một cô gái trẻ được mọi người cho rằng bị bệnh "lạnh suốt ngày". Những người thường xuyên có mặt tại ngôi mộ cho biết, cô này không phải người ở đây mà nghe đâu ở tận tỉnh ngoài dù mùa đông hay mùa hè đều cảm thấy rất lạnh và phải mặc áo rét nên bố mẹ phải đưa đến đây thuê trọ, ngày ra nằm cạnh mộ đến giờ ăn uống và ngủ thì lại về nhà trọ. Tuy nhiên khi tìm hiểu kỹ, chúng tôi được biết cô bé thực ra bị bệnh tâm thần, với biểu hiện là "sợ gió, sợ lạnh". Gia đình cũng từng cho điều trị tại nhiều bệnh viện nhưng khi nghe đến ngôi mộ thì đã bỏ cả việc điều trị để đến đây khoảng 1 tháng nay.
Người nằm dưới mộ là ai?
Theo tài liệu mà chúng tôi tìm hiểu được, cụ Trưởng Cần tên thật là Nguyễn Đức Cần, sinh năm 1909, được biết đến như một nhà văn hóa, nhà tâm linh nổi tiếng. Nhiều tài liệu cho rằng cụ có khả năng chữa bệnh tài tình mà không dùng đến thuốc, chỉ cần truyền năng lượng cho bệnh nhân là bách bệnh tiêu tán. Theo cuốn sách của nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, cụ Nguyễn Đức Cần chữa bệnh bằng phương pháp rất kỳ lạ như chữa bệnh từ xa mà không cần dùng đến thuốc. Nhờ phương pháp chữa bệnh này đã có hàng trăm, hàng nghìn người khỏi bệnh mà không tốn bất kỳ một đồng nào. Cuộc đời và thân thế của ông cũng ẩn chứa nhiều điều bí ẩn đến nay vẫn chưa có lời giải thích thỏa đáng.
Cụ Trưởng Cần sinh nhằm đúng vào đêm 30 Tết năm 1909 tại làng Đại Yên (nay thuộc Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội) trong một gia đình nhà nho giàu lòng yêu nước. Lên 8 tuổi, cụ được gia đình gửi vào học tại trường Albert Sarraut Hà Nội, 12 tuổi thì cưới vợ, và chỉ mấy ngày sau người vợ cụ đã quay về nhà ngoại ở. Đúng lúc này thì công việc làm ăn của gia đình bắt đầu thua lỗ, rơi vào kiện cáo, bố cụ đổ bệnh, chạy chữa khắp nơi không khỏi. Sau này, gia đình cụ mời được một thầy lang về chữa. Chẳng biết thầy lang đó chữa bằng cách nào, nhưng chỉ vài ngày thì bố của cụ khỏi bệnh. Không những thế, thầy lang đó bảo chỉ chữa bệnh làm phúc và không nhận tiền bạc thù lao của gia đình. Sau này thầy lang đã nhận cụ Cần theo truyền dạy phương pháp chữa bệnh, tu luyện tại đỉnh Mẫu (nay thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Theo thầy lang kia thì đây là nơi "linh khí Việt Nam hội tụ", rất tốt cho việc tu luyện thần nhãn, hấp thụ dương quang và truyền dạy tuệ quang...
Trước năm 1945, cụ tham gia hoạt động cách mạng tại Chiến khu Việt Bắc. Để yên tâm hoạt động cách mạng, khi lên Việt Bắc, cụ đã gửi con gái út là Bùi Thị Sinh làm con nuôi cho gia đình ông Bùi Văn Hồ ở thôn My Hạ, xã Thanh Mai. Năm 1955 từ Việt Bắc trở về, cụ sinh sống tại Ngọc Hà, Ba Đình (Hà Nội) và làm nghề trồng hoa. Khoảng những năm 1940, cụ Cần bắt đầu chữa bệnh. Đầu tiên là những người trong họ tộc thân quen, sau mở rộng ra cho những ai có nhu cầu. Theo những lời lưu truyền lại thì cách chữa bệnh của cụ rất đặc biệt: Người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được cụ nhận lời, cụ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về thì bệnh có thể khỏi. Có người đến, cụ bảo cứ về đi, thế là bệnh cũng tự khỏi. Có người thì cụ còn xé nhỏ những mảnh giấy rồi truyền năng lượng vào, đưa cho người bệnh về nhà đốt lên uống hoặc đặt lên những chỗ bị đau. Những năm đó, người bệnh từ khắp nơi đổ về xin cụ chữa. Đặc biệt, cụ chữa bệnh mà không hề lấy tiền hay quà cáp của bất cứ ai.
Ngày 30/4/1974 các cơ quan chức năng đã tiến hành quay phim hai ca chữa bệnh của cụ với sự phản biện của các bác sỹ công nhận việc chữa bệnh của cụ đã cho kết quả ban đầu. Tuy nhiên, ngày 18/5/1974, Sở Y tế Hà Nội lại ra thông báo về việc chữa bệnh của cụ Cần và cho rằng phương pháp chữa bệnh đó là lừa bịp, mê tín dị đoan. Họ yêu cầu cụ muốn chữa bệnh phải có giấy phép. Mãi lâu sau, cụ mới quay lại chữa bệnh cho mọi người. Đến ngày 4/6/1983, sau khi chữa bệnh cho hai bệnh nhân xong, cụ nói rằng: "Công việc của tôi đến nay đã xong. Đó là công việc trị bệnh giúp đời ở cõi trần gian này. Nhưng, công việc cứu nhân độ thế của tôi mới được 50% thôi, tôi còn phải làm nốt công việc đó (trong cõi vô hình) thì mới trọn lời thề nguyện ấy, để triệu dân vui thỏa...", rồi qua đời một cách nhẹ nhàng.
Có thật ngôi mộ biết chữa bệnh?
Có mặt ở khuôn viên mộ cụ Trưởng Cần không lâu nhưng chúng tôi được nghe rất nhiều lời "truyền miệng" kỳ lạ về người nằm dưới mộ. Bà Nguyễn Thị Sinh cho rằng cụ Trưởng Cần không phải người thường, mà là thần, Phật hạ phàm để giúp đời, cụ chính là Thánh đời thứ hai. "Thế nên khi gặp các bậc Thần, Phật, cụ chỉ gọi là anh, chị mà thôi" - bà khẳng định. Bà cũng kể, trước khi cụ đi 11 năm đã dặn dò con cháu chọn vị trí này để hấp thu tinh khí đất trời, để lại nguồn năng lượng vĩnh hằng giúp cho hậu thế. Bởi thế rất nhiều người đến đây đã chữa khỏi bệnh. Rất tiếc chúng tôi chưa có cơ hội tiếp xúc với những người được cho là đã chữa khỏi bệnh, vì theo bà Sinh thì họ không để lại liên lạc.
Được biết trước đây thường chỉ ngày rằm, mùng 1 mới có người đến thắp hương tại mộ cụ. Tuy nhiên khoảng 6 tháng trở lại đây, thì khách thập phương trong Nam ngoài Bắc mới kéo đến ngày một đông. Gia đình bà Nguyễn Thị Sinh cũng dựng luôn một căn nhà nhỏ cạnh mộ để bán đồ lễ, rau củ. Bà Sinh cũng phô tô những bài báo nói về cụ Trưởng Cần và khả năng chữa bệnh của ngôi mộ bán với giá 10.000 đồng. Khi chúng tôi xin phép chụp ảnh, bà Sinh cho biết đã nhiều người đến chụp nhưng cụ không cho phép nên không ai chụp được mà bị cháy hết phim. Bản thân nhà báo viết bài báo trên đang bị đau đầu dữ dội, khi thắp hương xin phép cụ thì lập tức hết đau đầu (!?).
Theo tìm hiểu của chúng tôi thì trước đây, có một nhóm "nhà nghiên cứu về cảm xạ học" đã đến khu mộ cụ Trưởng Cần đo đếm rồi đưa ra kết luận rằng, chỉ số năng lượng địa sinh (Bovis) tại đây rất cao, lên tới 16.000 đơn vị. Nhóm nghiên cứu này khẳng định, nếu đúng khu mộ này có chỉ số năng lượng địa sinh cao như thế thì sẽ rất tốt cho sức khỏe. Bởi, theo một số nghiên cứu gần đây thì đa số những người mắc bệnh hiểm nghèo là do họ sống tại một địa điểm có chỉ số Bovis dưới 3.000 đơn vị trong một thời gian dài.
Được biết, chỉ số Bovis được lấy theo tên nhà vật lý Pháp Antoine Bovis. Ông đã đưa ra chỉ số này trong khi tiến hành khảo sát kim tự tháp Ai Cập trong những năm 30 của thế kỷ trước. Chỉ số Bovis dùng để đo "sức khỏe", "sức sống" tự nhiên của vật thể hữu cơ, đo năng lượng tự nhiên, sóng dao động của quả đất. Thứ năng lượng này là cần thiết để duy trì sự sống trên quả đất. Tuy nhiên thì cho đến nay chưa có máy móc gì để đo chính xác chỉ số Bovis, ở Việt Nam cũng chưa có công trình nghiên cứu chính thống nào được công bố về chỉ số Bovis. Trên thực tế, trong y học cũng đã công nhận phương pháp tác động bằng năng lượng địa sinh học (gọi là y học bổ sung) nhằm hỗ trợ cho y học chính thống. Nhiều người sống trong môi trường chật chội, ồn ào, ô nhiễm của thành phố thì sức khỏe rất kém, nhưng khi đến một vùng quê thanh bình, không khí trong lành sẽ thấy khỏe hơn, thoải mái hơn. Hay ngay việc ngồi thiền, cũng là một cách để con người tĩnh tâm, điều hòa khí huyết, rất tốt cho sức khỏe. Tuy nhiên nếu khẳng định ngôi mộ có khả năng chữa bệnh hay không thì cần thiết phải có các cuộc điều tra, kiểm chứng bằng các phương pháp khoa học.
Được biết một nhóm của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người đã về đây để nghiên cứu về địa từ trường nhằm tìm ra câu trả lời ngôi mộ trên có khả năng chữa bệnh hay không nhưng vẫn chưa có kết quả. Nói như lời TS.KTS Vũ Thế Khanh - Tổng Giám đốc Liên hiệp Khoa học Công nghệ Tin học Ứng dụng (UIA), để đưa ra được kết luận cần phải được kiểm chứng bằng thực nghiệm, bằng khoa học. Như vậy, cho đến thời điểm này vẫn chưa có bất cứ một nghiên cứu nào khẳng định, ngôi mộ trên có thể khả năng chữa bệnh.
Theo Xahoi
Ầm ỹ chuyện phá mộ bắt "rùa đá" giải cứu "long mạch" Chỉ trong một buổi sáng, khu vực Cồn Bần Thượng đã có gần 1.000 người của xã Hương Phong kéo đến xem người dân phá mộ, gây náo động cả một miền quê. Mảnh gạch men được cho là để xây rùa đá Nghi ngờ ngôi mộ chưa an táng người chết do một thầy địa cao tay xây dựng để trấn yểm...