Bị dư luận phản đối gay gắt, cha đẻ bộ ‘Chữ Việt Nam song song 4.0′ nói gì?
“Đơn thuần đó chỉ là công cụ viết tắt, bổ trợ cho chữ Quốc ngữ không hơn, không kém, mọi người đang hiểu sai về mục đích của tôi và ông Trần Tư Bình”.
Đó là trần tình của ông Kiểu Trường Lâm (34 tuổi), một trong hai tác giả bộ “ Chữ Việt Nam song song 4.0″ với VTC News sau khi nhận nhiều ý kiến phản đối gay gắt của số đông công chúng.
Bộ chữ là sự kết hợp từ hai công trình Chữ Việt nhanh và Ký hiệu dấu của Kiều Trường Lâm và Trần Tư Bình, vừa nhận được giấy chứng nhận bản quyền từ Cục Bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch). Bộ chữ chỉ sử dụng 26 chữ cái Latin, trong đó dùng 18 chữ cái Latin để thay thế dấu thanh và dấu phụ so với chữ Quốc ngữ.
Ngay khi công bố, một số cho rằng sáng tạo một hệ thống ký âm Tiếng Việt mới là chuyện bình thường và nó hoàn toàn độc lập, không làm biến dạng hay thay thế gì được tới Tiếng Việt. Vì chữ viết Việt và tiếng nói Việt (gọi tắt là tiếng Việt) hai phạm trù hoàn toàn khác nhau.
Tuy nhiên, lại có người phản đối gay gắt, mỉa mai, họ nói không nên làm phức tạp, rắc rối thêm chữ viết Việt. Thậm chí cũng có bình luận nói đó là kiểu chữ viết “què quoặt”.
Ông Kiều Trường Lâm, đồng tác giả bộ “Chữ Việt Nam song song 4.0″
“Chỉ là công cụ hỗ trợ”
Chia sẻ với phóng viên, ông Kiều Trường Lâm cho biết, từ nhỏ ông đam mê về ngôn ngữ học. Ông thường tự học, tự đọc các tài liệu liên quan đến chữ Quốc ngữ, âm, vần, ngữ pháp.
Với ông, chữ Quốc ngữ là ngôn ngữ hay, có giá trị sử dụng cao trong đời sống, đi sâu vào tâm thức của mỗi người và nó đang lưu giữ giá trị lịch sử hàng thế kỷ của Việt Nam ta. Ngôn ngữ đó không thể thay đổi và ông cũng không có ý định cải tiến chữ Quốc ngữ mà chỉ đưa ra những cải tiến ở dạng viết tắt không dấu.
“Bộ chữ viết này chỉ như một sự lựa chọn cho những mục đích rất cụ thể, như tốc ký hay bảo mật, hoặc có thể coi là một thứ bài tập để dạy về tín hiệu học, về ký tự công nghệ thông tin”, ông Lâm nói.
‘Chữ Việt Nam song song 4.0′ chỉ như bộ gõ tắt được thống nhất về ký tự và cách viết, không làm thay đổi chữ Quốc ngữ.
Tác giả Kiều Trường Lâm
Giải thích thêm về công trình nghiên cứu, ông Kiều Trường Lâm chia sẻ, ngay từ cái tên “Chữ Việt Nam song song 4.0″ đã nói lên một phần mục tiêu, là có thể sử dụng song song với chữ viết hàng ngày, không ảnh hưởng đến chữ Quốc ngữ.
“Đơn thuần đó chỉ là công cụ viết tắt, bổ trợ cho chữ Quốc ngữ không hơn, không kém. Mọi người đang hiểu sai về mong muốn này của tôi và ông Trần Tư Bình”.
Từng có vô vàn câu chuyện giới trẻ nhắn tin không dấu, gây hiểu lầm tệ hại. Bởi mỗi người đang tự sáng tạo ra một kiểu viết tắt riêng, chưa có sự thống nhất nên dễ gây hiểu sai ý diễn đạt của nhau.
Chữ Việt song song ra đời để khắc phục nhược điểm này, nó chỉ như bộ gõ tắt được thống nhất về kí tự và cách viết. Điều đó giúp chúng ta dễ dàng hiểu nhanh các câu chuyện trao đổi trong giao tiếp, và không ảnh hưởng đến việc sử dụng chữ Quốc ngữ.
Tác giả Kiều Trường Lâm kỳ vọng bộ chữ mới này sẽ hỗ trợ cho giới trẻ sử dụng nhắn tin không dấu mà không gây hiểu lầm. Coi nó đơn thuần chỉ là một công cụ gõ tắt khi sử dụng trên các thiết bị điện tử.
Ngoài ra, ưu điểm của “Chữ Việt Nam song song 4.0” là không dấu có thể sử dụng ở bất kỳ điện thoại hay máy tính nào, mà không cần bộ gõ Tiếng Việt hỗ trợ nên sử dụng trên Internet sẽ rất hiệu quả.
Giấy chứng nhận bản quyền tác giả của công trình “Chữ Việt Nam song song 4.0″.
Không có mục đích cải tiến chữ Quốc ngữ
Vị tác giả này cho rằng, sáng tạo là quyền tự do của mỗi người và bộ chữ Việt nhanh này giống như ứng dụng giải trí trên internet, điện thoại hỗ trợ viết nhanh, viết tắt cho giới trẻ trong thời đại công nghệ 4.0. Mọi người có quyền lựa chọn sử dụng nó hoặc không.
Sở dĩ để tên công trình là “Chữ Việt Nam song song 4.0″ vì tác giả muốn nó sẽ hướng đến phát huy lợi thế nhiều nhất trên các hệ thống máy tính, công nghệ thông tin. Điều này đã được nhiều kỹ thuật viên IT kiểm chứng.
“Độc giả cần đặt bộ chữ Việt nhanh của tôi vào hoàn cảnh và mục đích phù hợp để thấy nó không sai; đừng vội đặt bộ chữ vào hoàn cảnh giao tiếp, đọc hiểu kiểu truyền đạt thông tin truyền thống để phán xét, lăng mạ.
“Bộ chữ của chúng tôi chỉ là một loại chữ viết tắt không dấu và không phải chữ cải tiến như một số thông tin thời gian gần đây”, ông Lâm nói.
Tác giả “lạc quan” cho rằng một sản phẩm mới ra đời thì bao giờ cũng có những ý kiến phản biện trái chiều. Ông trân trọng điều đó và cho biết bản thân cần nhiều thời gian chứng minh bằng thực tiễn sản phẩm.
“Nếu mọi người sẵn sàng học thử và thử áp dụng, tôi tin rằng chính những ai từng phản biện gay gắt với công trình này sẽ nhận ra tính ứng dụng cao trong thời đại số hoá 4.0″, ông Kiều Truờng Lâm nói.
“Chữ Việt Nam song song 4.0″ là chữ viết không dấu chỉ sử dụng 26 chữ cái La tinh và trong đó dùng 18 chữ cái La tinh để thay thế dấu thanh và dấu phụ cho chữ quốc ngữ.
Nó cho phép người sử dụng đọc được lưu loát trọn vẹn vì trong “Chữ Việt Nam song song 4.0″ có sự biến đổi linh hoạt giữa các vần Chữ Việt nhanh của thầy Trần Tư Bình; sự luân chuyển giữa các ký hiệu dấu, tạo ra chữ viết có độ chính xác cao giúp người sử dụng nhận biết được mặt chữ và đọc được.
Cụ thể, bỏ bớt dấu sắc ở mọi từ có chữ cái cuối là: C, P, T, CH, chữ I thay cho Y, Y thay cho UY. Ở phụ âm đầu, chữ F thay PH, Q thay QU, C thay K, K thay KH, Z thay D, D thay Đ, J thay GI, G thay GH, W thay NG, NGH.
Ở phụ âm cuối, chữ thì G thay NG, H thay NH, K thay CH. Nguyên âm ghép được rút gọn thành một nguyên âm như UYE còn là Y, UÔ còn U, ƯƠ còn Ư, OE còn E, OA còn O… Và cùng lúc thay chữ cái cuối bằng chữ cái khác như T bằng D, P bằng F, C bằng S, N bằng L…
Như vậy, ráp 10 nguyên âm rút gọn vào 8 chữ cái cuối khác, ghi gọn được 52 vần trên mỗi vần chỉ còn 2 chữ cái, như UYÊT, UYÊN = YD, YL. Ví dụ thuyết chuyện = thyd chỵl. Tuy cách viết khác với vần quốc ngữ nhưng cách đọc vẫn như nhau.
Đồng thời, có 18 ký hiệu dấu dùng để thay thế các dấu thanh và dấu phụ cho chữ quốc ngữ. J = Dấu sắc, L = Dấu huyền, Z = Dấu hỏi, S = Dấu ngã, R = Dấu nặng. Nhóm X, K, V, W, H thay thế 5 dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng dấu trăng hay dấu móc cho các chữ ắ ằ ẳ ẵ ặ, ớ ờ ở ỡ ợ, ứ ừ ử ữ ự.
Nhóm B, D, Q, G, F thay thế 5 dấu: sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng dấu nón ^ cho chữ ấ ầ ẩ ẫ ậ, ế ề ể ễ ệ, ố ồ ổ ỗ ộ. Nhóm O, Y, P, trong đó chữ O thay thế dấu trăng hoặc dấu móc cho chữ có thanh ngang như ă, ơ, ư; chữ P là ký hiệu chữ bỏ dấu thanh & dấu phụ, chỉ đặt P sau chữ không có dấu thanh và dấu phụ nào trong chữ có vần để không bị hiểu lầm qua chữ khác; chữ Y thay thế dấu nón ^ cho chữ có thanh ngang như â, ê, ô.
Video: Chính phủ không có chủ trương cải tiến chữ quốc ngữ
HÀ CƯỜNG
Những trường học đầu tiên của nữ sinh Hà Nội
Đầu thế kỷ 20, dù đã có chữ quốc ngữ nhưng con gái Hà Nội vẫn không được cha mẹ cho đi học vì quan niệm "con gái học chữ chỉ để cãi chồng". Nhà tư sản yêu nước Hoàng Thị Minh Hồ kể rằng, trước khi lấy ông Trịnh Văn Bô, bà đã phải trốn cha mẹ đi học chỉ vì muốn biết chữ.
Giờ học may tại một lớp học ở trường nữ sinh Đồng Khánh, Hà Nội thập niên 1920
Khai dân trí
Chuyện học hành của con gái Hà Nội bắt đầu thay đổi khi cụ cử Lương Văn Can cùng các cộng sự là trí thức Nho học, Tây học mở trường "Đông Kinh nghĩa thục" ở phố Hàng Đào năm 1907. Trường dạy chữ quốc ngữ, chữ Hán, tiếng Pháp, văn học... với mục đích khai dân trí cho nhiều đối tượng, trong đó có lớp dành cho phụ nữ.
Không chỉ khai dân trí, các nhà tổ chức phong trào này ngầm hướng tới mục tiêu cao hơn: "Muốn canh tân đất nước thì phải biết chữ quốc ngữ và tiếng Pháp". Chính cụ Lương Văn Can cũng bất ngờ vì lớp học dành cho phụ nữ lúc nào cũng đông đúc. Sau khi dập tắt "Đông Kinh nghĩa thục", cùng với mở các trường tiểu học dành cho học sinh nam, chính quyền Pháp ở Hà Nội cũng mở trường học dành cho học sinh nữ. Ngày 6-1-1908, Trường nữ tiểu học Pháp-Việt khai giảng khóa đầu tiên với 178 học sinh.
Trường nằm ở phố Takou (nay là trường THCS Thanh Quan ở phố Hàng Cót). Hai năm sau, trường đổi tên thành "École Brieux" (tên nhà viết kịch người Pháp). Việc chính quyền mở trường dành riêng cho nữ ngoài lý do học sinh nữ có môn học riêng thì còn lý do theo quan niệm trong xã hội lúc đó "nam nữ thụ thụ bất thân". 178 học sinh nữ ban đầu của trường "École Brieux" Hàng Cót không phải do các gia đình tự nguyện cho con đi học mà vì bị bắt buộc. Khi đó đã có chính sách, trẻ con cả trai và gái đến tuổi đi học mà không đến trường thì trưởng phố phải chịu trách nhiệm.
Vậy nên nhiều trưởng phố phải "nộp trẻ" cho trường bất chấp sự phản ứng của cha mẹ. Mục đích việc ép buộc đi học của chính quyền Pháp không phải là khai hóa văn minh cho dân chúng thuộc địa mà phục vụ cho mục đích cai trị của họ. Nhưng việc gì cũng có tính hai mặt, khi nhiều người biết chữ quốc ngữ và tiếng Pháp, họ có cơ hội mở mang tri thức, từ đó đấu tranh đòi quyền cho bản thân và cho dân tộc.
Tuy bị ép buộc, song việc học đã mang lại hiệu quả tích cực cho xã hội. Một số học sinh khóa đầu của trường "École Brieux" Hàng Cót đã can đảm theo học lớp đỡ đẻ của Trường Y khoa Hà Nội. Khi tốt nghiệp, người vào làm việc ở bệnh viện công, số khác mạnh dạn mở phòng hộ sinh tư góp phần hạn chế trẻ sơ sinh ở Hà Nội tử vong vì đẻ tại gia đình theo truyền thống. Cũng có các cô đi học cao đẳng sư phạm để trở thành giáo viên dạy chữ quốc ngữ và nữ công gia chánh.
Giờ tan trường tại trường nữ sinh Đồng Khánh (nay là trường Trung học cơ sở Trưng Vương ở 26 Hàng Bài) ở Hà Nội đầu thế kỷ 20
Chấn dân khí
Nhờ đến trường, nhiều cô gái Hà Nội vốn quen sống phụ thuộc, chỉ ru rú trong nhà đã tự tin bước ra xã hội. Trước những kết quả đó, năm 1917, chính quyền Pháp mở "Cơ sở giáo dục nữ sinh Việt Nam" (Institution de Jeunes Filles Annamites) với hai bậc "Tiểu học" và "Cao đẳng tiểu học" tại phố Đồng Khánh (nay là phố Hàng Bài). Các nữ sinh được học nhiều môn như chữ quốc ngữ, tiếng Pháp, số học, địa lý, luân lý, phép xã giao, vệ sinh... do cô giáo người Pháp dạy. Còn các cô giáo người Việt sẽ dạy nữ công gia chánh như quản lý gia đình, may vá, thêu thùa, nấu ăn...
Trường nhận học sinh gái bắt đầu từ 8 tuổi. Năm 1937, do chương trình học thay đổi, trường Cao đẳng Tiểu học nữ sinh bản xứ (lúc này gồm "Cơ sở giáo dục nữ sinh người Việt" và "Cơ sở đào tạo nữ giáo viên người Việt") được đổi tên thành trường Trung học nữ sinh Việt Nam (Collège de Jeunes Filles Annamites). Vì trường nằm trên phố Đồng Khánh nên dân chúng gọi là Trường nữ trung học Đồng Khánh.
Cùng với "Cơ sở giáo dục nữ sinh Việt Nam", tại Hà Nội còn có nhiều trường nội trú dành cho nữ như trường Sainte Marie ở đại lộ Rollandes (nay là phố Hai Bà Trưng) của địa phận công giáo Hà Nội; trường nữ nội trú dành cho con lai ở phố Riquier (nay là phố Nguyễn Du) và Sergent Larrivée (nay là Nguyễn Công Trứ), cùng một số trường tư thục nổi tiếng như trường nữ "École Brieux" Hàng Cót. Hàng ngày trước khi vào giờ học, các nữ sinh Đồng Khánh phải xếp hàng dưới sân trường, vừa hát một bài tiếng Pháp, vừa kéo cờ Pháp và cờ Việt Nam. Nhiều nữ sinh thể hiện tinh thần yêu nước thường cố ý kéo cờ Việt Nam cao hơn.
Cũng nhờ được đi học nên phụ nữ Hà Nội đã thay đổi, xã hội cũng thay đổi. Phong trào "tân thời" của con gái Hà Nội là một cuộc "cách mạng" chống lại sự khắt khe trong đạo đức Nho giáo với phụ nữ, đó cũng là cuộc đấu tranh đòi bình quyền đầu tiên. Một số nữ sinh tốt nghiệp tú tài có tư tưởng tiến bộ đã chuẩn bị hành trang cùng dân tộc bước vào cuộc kháng chiến khi Pháp tái chiếm Hà Nội năm 1946. Từ mái trường Đồng Khánh, sau này đã có những người phụ nữ thành danh trong khoa học như Giáo sư Lê Thi, Giáo sư Hoàng Xuân Sính...
Theo An ninh Thủ đô
Lùi thời gian tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân Sáng 27-2, Tổng cục Thể dục thể thao đã có văn bản đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa và Thể thao các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các đơn vị liên quan tạm lùi thời gian tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân. Ảnh minh họa. Nguồn: phapluatplus Việc tổ...