Bí ẩn về thiên thạch ở Oregon
Bí ẩn này đã tồn tại trong suy nghĩ của người dân Oregon, Hoa Kỳ trong hơn 100 năm. Hơn thế nữa có rất nhiều suy đoán về sự tồn tại của thiên thạch này, đặc biệt là vì nó đã mất tích kể từ thế kỷ 19.
Mọi chuyện bắt nguồn từ việc Bộ Nội vụ Hoa Kỳ quyết định thuê một người tên là John Evans để thực hiện một cuộc khảo sát ở Oregon.
Ban đầu, John Evans được giao nhiệm vụ tiến hành một cuộc khảo sát địa chất của Tây Nam Oregon. Chính tại đây, anh ấy đã trở nên nổi tiếng và những bí ẩn về thiên thạch này cũng theo đó mà xuất hiện.
John Evans sinh ra ở Portsmouth, New Hampshire vào năm 1812. Anh là con trai của Phó Tư pháp tại Tòa Thượng thẩm New Hampshire, Richard Evans. Anh theo học trường cao đẳng y tế St. Louis và nhận bằng y khoa tại đó.
Năm 1835, người đàn ông này kết hôn với Sarah Zane Mills. Mặc dù là một bác sĩ y khoa, tuy nhiên John Evans cũng rất quan tâm đến địa chất và đã có nghiên cứu chuyên nghiệp với tư cách là một nhà địa chất tại Viện Smithsonian. John Evans đã nhiều lần được vinh danh với những nghiên cứu địa chất của mình, và vào năm 1854 anh đã được chọn làm thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Tự nhiên Hoa Kỳ.
John được chọn làm trợ lý cho nhà địa chất học nổi tiếng, tiến sĩ David Dale Owen để giúp ông thực hiện một dự án ở Iowa, Wisconsin và Minnesota. John dự kiến sẽ kiểm tra ranh giới của các thành tạo bậc ba và thành tạo kỷ phấn trắng, phía tây Missouri.
Trong khi làm điều này, anh ấy đã gây ấn tượng với Owen nhờ vào phát hiện ra những vỉa than gần Fort Berthold, một nguồn tài nguyên phong phú cho khu vực. Evans tiếp tục gây ấn tượng với các đồng nghiệp của mình với những nhiệm vụ sau đó và được bổ nhiệm làm người kế nhiệm Owen ở khu vực Oregon. Chính ở đây, anh ấy đã thực hiện khám phá lớn của mình.
Bức thư năm 1859 của John Evans thảo luận về việc phát hiện ra thiên thạch.
Trong một báo cáo của Evan, anh ấy đã thảo luận về một thiên thạch đáng chú ý. Anh ấy tuyên bố rằng trong thời gian diễn ra sự kiện “Chiến tranh Da đỏ” (Indian War), anh ấy đã leo lên một đỉnh núi được gọi là Bald Mountain (nằm trong phạm vi sông Rogue cách Port Orford khoảng 56-64 km) và phát hiện ra một thiên thạch bí ẩn.
Anh ấy đã mang một phần của thiên thạch này trở về và gửi nó đến phòng thí nghiệm để tiến hành nghiên cứu. Khi kết quả trả về, họ tiết lộ rằng đây thực sự là một thiên thạch. Đây là một phát hiện hấp dẫn đối với khoa học thời bấy giờ. Tuy nhiên các ghi chú của Evans, thiên thạch này có kích thước rất lớn và gây ra nhiều khó khăn để chuyển toàn bộ thiên thạch về phòng thí nghiệm.
Video đang HOT
Ngoài ra do địa hình khó tiếp cận nên việc di chuyển thiên thạch chỉ có thể thực hiện nhờ vào sức kéo của những con la tại địa phương. Evans ước tính rằng việc di chuyển thiên thạch sẽ tiêu tốn khoảng 3.000 đô la vào thời điểm đó.
Bởi vậy, thiên thạch đã không được di chuyển và sự tồn tại của nó chỉ được người ta biết đến thông qua những ghi chú của John Evans.
Các báo cáo về thiên thạch này sau đó đã nhanh chóng lan truyền khắp nước Mỹ, với một số bài báo thậm chí còn cho rằng nó nặng khoảng 10 tấn. Nhiều cuộc thám hiểm sau đó đã được lên kế hoạch với sự dẫn đầu của Evans, nhưng thật không may, chúng đều không được thực hiện bởi vào năm 1861 Evans qua đời vì bệnh viêm phổi.
Với việc nhân chứng duy nhất có thể xác nhận vị trí của thiên thạch đã chết và không có đủ thông tin trong các ghi chú còn sót lại của anh ta. Những cuộc thám hiểm nhằm lần lại dấu vết của thiên thạch sau đó đều gặp phải những thất bại không mong muốn.
Trong những năm 1920 và 1930, Viện Smithsonian đã tỏ ra rất quan tâm đến thiên thạch này, họ đã tổ chức nhiều cuộc tìm kiếm dựa vào tuyến đường của Evan. Tuy nhiên, thiên thạch khổng lồ này vẫn không được phát hiện thêm một lần nữa.
Nhật ký thực địa của Evans cũng không có bản đồ hoặc nhắc đến địa danh cụ thể nào. Do đó những đoàn thám hiểm cũng không thể xác định được chính xác phương hướng mà Evans đã đi trước đó.
Vào những năm 1920, Hiệp hội Boston Society đã tiến hành xem xét lại mẫu vật thiên thạch mà John Evans mang về trước đó. Các chuyên gia đã kiểm tra chúng và đưa chúng qua nhiều thử nghiệm nghiêm ngặt.
Edward Henderson, người phụ trách nghiên cứu mẫu vật thiên thạch tại thời điểm đó, đã kết luận rằng mặc dù ông có thể xác định rằng những tảng đá thực sự có nguồn gốc từ thiên thạch. Tuy nhiên ông lại không chắc chắn rằng chúng có đến từ thiên thạch Oregon khổng lồ hay không. Henderson đã dành nhiều năm để tìm kiếm thiên thạch khổng lồ này nhưng không có kết quả.
Những cuộc tìm kiếm thiên thạch Oregon vẫn tiếp tục diễn ra và đến năm 1964, người ta đành tạm kết luận rằng thiên thạch này có thể không hề tồn tại.
Vào những năm 1990, nhà sử học Howard Plotkin đã tiến hành một lượng lớn nghiên cứu với việc kiểm tra toàn diện hồ sơ lịch sử. Ông hợp tác với các nhà luyện kim Vagn Buchwald và Roy Clarke, đồng nghiệp của Henderson tại Viện Smithsonian, để điều tra vấn đề tồn tại của thiên thạch Oregon.
Clarke và Buchwald đã kết luận rằng các mẫu thiên thạch mà Evans mang về thực sự thuộc về cánh đồng thiên thạch nằm ở sa mạc Atacama trên bờ biển Chile. Và rất có thể Evans đã đánh lừa cả nước Mỹ về khám phá bí ẩn của mình.
Evans đã rơi vào tình trạng khủng hoảng tài chính vào những năm 1850. Có thể đây là động cơ của anh ta để cố gắng đánh lừa cả thế giới. Có lẽ anh ấy đã hy vọng nhận được danh tiếng và đảm bảo nguồn tiền tài trợ từ chính phủ với tư cách là một nhà địa chất nổi tiếng.
Hóa thạch từ 7 triệu năm trước chứng minh rằng loài người đã tiến hóa ở châu Âu
Châu Phi có thể không phải là nơi duy nhất phát sinh nguồn gốc của sự tiến hóa. Loài người xuất hiện và phát triển ở khu vực phía đông Địa Trung Hải khoảng 7,2 triệu năm trước. Kết luận này đến từ những phân tích mới về một số hóa thạch vượn người, được các chuyên gia đặt tên là "El Graeco".
Theo đó, các lý thuyết cho rằng con người xuất hiện lần đâu tiên ở châu Phi đã bị mâu thuẫn. Năm 1944, một hàm răng cổ đại được phát hiện ở Pyrgos Vassilissis, Hy Lạp, nhưng khi đó nó không được chú ý nhiều.
Tuy nhiên, sự quan tâm đến hóa thạch, cũng như Pyrgos Vassilissis, một tài sản cũ của hoàng gia ở lục địa Hy Lạp hiện đang tăng lên sau khi công bố thông báo về một khám phá đáng kinh ngạc của một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế.
Một mẫu hóa thạch có niên đại 7,2 triệu năm tuổi thuộc về người tiền sử đang khiến các nhà khoa học phải cân nhắc khả năng sự phân tách nòi giống con người diễn ra ở khu vực Đông Địa Trung Hải chứ không phải như giả định hiện nay là ở châu Phi
Madelaine Bhme, trưởng dự án từ Trung tâm Tiến hóa Loài người Senckenberg và Đại học Tbingen, và đồng tác giả Nikolai Spassov từ Viện Hàn lâm Khoa học Bulgary, cùng với các đồng nghiệp khác, đã phân tích cả hóa thạch Pyrgos và một chiếc răng tiền hàm khác được phát hiện ở Azmaka, Bulgaria.
Spassov cho biết El Graeco (Graecopithecus) là vượn nhân hình lâu đời nhất được biết đến cho đến nay. Nó già hơn vài trăm nghìn năm so với loài vượn nhân hình lâu đời nhất được tìm thấy ở Châu Phi, Sahelanthropus, được phát hiện ở Chad, có niên đại cách đây 6-7 triệu năm.
Các nhà nhân chủng học sử dụng thuật ngữ vượn nhân hình vì tổ tiên chung cuối cùng của con người và tinh tinh đã giữ lại cả đặc điểm của các loài linh trưởng khác và con người.
Mặc dù El Graeco chỉ được biết đến từ hàm hóa thạch và từ răng hàm nhỏ. Nhưng nhóm các nhà nghiên cứu đã sử dụng công nghệ chụp cắt lớp vi tính để tìm hiểu về cách các đặc điểm tiến hóa thành các dạng giống người hơn và chân răng của các răng hàm bị tiêu giảm đáng kể như thế nào.
Trong khi những loài linh trưởng lớn thường có hai hoặc ba gốc răng riêng biệt và khác nhau, thì những gốc răng của vượn nhân hình Graecopithecus lại hội tụ và hợp nhất một phần, một đặc điểm đặc trưng cho người hiện đại, người sơ khai và một số loài vượn nhân hình, bao gồm cả Ardipithecus và Australopithecus.
Giáo sư David Begun, đồng tác giả của nghiên cứu, cho biết thêm: "Niên đại này cho phép chúng ta đưa ra giả thuyết rằng người-tinh tinh đã chia tách từ khu vực Địa Trung Hải."
Các nhà nghiên cứu tin rằng những thay đổi đáng kể của môi trường có thể đã ảnh hưởng đến sự tiến hóa của người tiền sử.
Căn cứ vào phân tích địa chất của các trầm tích nơi tìm thấy hai mẫu hóa thạch trên, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng sa mạc Sahara ở Bắc Phi xuất hiện cách đây hơn 7 triệu năm trước. Giáo sư Nikolai Spassov, người cùng tham gia nghiên cứu, cho rằng: "Chúng tôi đã tái tạo lại một thảo nguyên, phù hợp với những con hươu cao cổ, linh dương, linh dương và tê giác được tìm thấy cùng với người Graecopithecus".
Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu các mảnh cực nhỏ của than và các hạt silicat từ thực vật (phytolith), nhằm tái tạo lại khí hậu của thời kỳ đó ở khu vực phía đông Địa Trung Hải và Bắc Phi. "Các phytolith cung cấp bằng chứng cho thấy hạn hán nghiêm trọng đã xảy ra và phân tích than chỉ ra rằng các vụ cháy thảm thực vật định kỳ đã xảy ra".
Nói tóm lại, các nhà khoa học hiện đang tái tạo lại môi trường sống và các loài động vật đã được phát hiện cùng với Graecopithecus. "Các nhà khoa học đã phân tích sâu hơn về muối, đồng vị của uranium, thorium và chì, được tìm thấy trong các hạt bụi từ sa mạc Sahara, thường được các cơn bão mang đến Địa Trung Hải".
Việc xác định niên đại của các nguyên tố này và phân tích sự lan rộng của chúng cho thấy rằng sa mạc Sahara hình thành từ 7-8 triệu năm trước.
Bhme cho biết: "Sự hình thành ban đầu của một sa mạc ở Bắc Phi, hơn 7 triệu năm trước và sự lan rộng của các thảo nguyên ở Nam Âu có thể đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phân tách con người và tinh tinh". Ngày nay, lý thuyết này được gọi là "Câu chuyện phía Bắc", gợi nhớ đến một giả thuyết được đưa ra bởi nhà nhân chủng học Yves Coppens, người đã phát hiện ra hóa thạch "Lucy" ở châu Phi.
Kết quả phân tích cho thấy các mẫu hóa thạch Graecopithecus có niên đại 7,24 và 7,175 triệu năm - cao hơn vài trăm nghìn năm so với người tiền sử được cho là lâu đời nhất đến từ châu Phi đó là người Sahelanthropus xuất hiện ở Chad từ 6-7 triệu năm trước.
Lý thuyết của Coppens, được gọi là "Câu chuyện phía Đông", tuyên bố rằng vượn người lần đầu tiên tiến hóa thành Great Rift ở Kenya. Khi xem xét các hóa thạch được tìm thấy ở châu Phi, châu Á và châu Âu, cho thấy rằng các loài linh trưởng đầu tiên đến từ châu Á hơn 40 triệu năm trước. Sau đó một số loài đã đến châu Phi và tiến hóa.
Bhme giải thích: Sau nhiều năm tiến hóa, một số loài được gọi là vượn người đã quay trở lại châu Âu và châu Á khoảng 14 triệu năm trước. Nhà nghiên cứu cho biết tổ tiên của El Graeco là vượn người Á-Âu, cũng như Ouraanopithecus từ Hy Lạp.
Phát hiện hai khoáng chất ngoài hành tinh bên trong thiên thạch khổng lồ Hai khoáng chất trước đây chưa từng xuất hiện trên trái đất vừa được tìm thấy bên trong thiên thạch trọng lượng 16,5 tấn, mang đến cơ hội nghiên cứu về cách thức các thiên thể hình thành trong không gian. Một mẫu thuộc thiên thạch chứa 2 khoáng chất ngoài hành tinh ĐẠI HỌC ALBERTA Hai khoáng chất mới toanh được phát...