Bí ẩn tàu ngầm uy lực ‘tử nạn’ vì… hỏng toilet
Tàu ngầm U-1206 chưa bao giờ nổi tiếng được như tàu Titanic, nhưng sự thật khó tin về việc tàu đã chìm như thế nào và tại sao vẫn khiến nhiều người sửng sốt.
Vào ngày 6/4/1945, tàu ngầm Đức mang số hiệu U-1206 khởi hành từ thành phố cảng Kristiansand của Na Uy (khi đó nằm dưới sự đóng quân của phát xít Đức), bắt đầu chuyến tuần tra đầu tiên. Được điều tới vùng biển Bắc Đại Tây Dương, nhiệm vụ của tàu là tìm và diệt các tàu của Anh và Mỹ ở ngoài khơi.
Bí ẩn tàu ngầm uy lực &’tử nạn’ vì… hỏng toilet
Đối với 50 thủy thủ trên tàu ngầm U-1206, cuộc sống của họ không chỉ vô cùng nguy hiểm, mà còn rất khó chịu. Nơi sinh hoạt tù túng, và các nhà vệ sinh cũng không phải ngoại lệ.
Trên tàu chỉ có 2 nhà vệ sinh (toilet), và một trong số đó lại ngay cạnh bếp – nơi thường trữ thức ăn. Khi nhà bếp vận hành thì toilet này không thể sử dụng được, và toàn bộ đội thủy thủ phải dùng toilet còn lại.
Sức ép quá lớn
Hệ thống ống nước trên tàu ngầm Đức thời kỳ đó rất khác so với của Anh và Mỹ: Toilet của tàu Đức xả chất thải thẳng ra biển, thay vì giữ lại trong một thùng chứa. Bỏ thùng chứa nên tàu tiết kiệm được không gian, nhưng việc này cũng khiến tàu phải trả giá đắt.
Các toilet này chỉ có thể sử dụng khi tàu đang di chuyển hoặc gần bề mặt biển. Khi tàu lặn, sức ép bên ngoài thân tàu quá lớn, nên toilet không thể xả chất thải.
Nếu thủy thủ có nhu cầu vệ sinh trong các tình huống trên, họ phải sử dụng các loại … thùng, hộp kẽm, hoặc bất cứ thứ gì có thể chứa được chất thải. Sau đó, chờ tới khi tàu nổi họ mới có thể đổ vào toilet và xả nước.
Hệ thống thông hơi trong các tàu ngầm Đức thời Thế chiến II đặc biệt kém. Ngay cả trong tình trạng hoạt động tốt nhất, không khí trong tàu lẫn với mùi dầu diesel, mùi cơ thể người và cả những mùi khác. Khi toilet ngừng hoạt động thì toàn bộ các vật dụng đựng chất thải góp phần làm trầm trọng thêm bầu không khí.
Video đang HOT
Tàu U-1206 có một hệ thống thông hơi mới và cải tiến. Không giống các tàu trong hạm đội, con tàu này có toilet áp suất cao, nên có thể sử dụng được khi ở dưới độ sâu lớn hơn so với các toilet thông thường. Nhưng hệ thống này lại rất khó vận hành, với các hướng dẫn phức tạp, và chỉ có vài thủy thủ được huấn luyện để sử dụng. Họ được coi là &’chuyên gia xả bể phốt’.
Chỉ trong tuần đầu đi tuần tra, Thuyền trưởng Karl Adolf Shlitt (lần đầu chỉ huy một tàu ngầm) của tàu U-1206 buộc phải sử dụng nhà vệ sinh, khi tàu ở độ sâu 61m, cách bờ biển Scotland 8 dặm. Thay vì nhờ tới trợ giúp của các &’chuyên gia xả bể phốt’, Schlitt cố tự mình tìm hiểu hướng dẫn sử dụng. Nhưng rồi trục trặc xảy ra.
Và khi Schlitt nhờ chuyên gia toilet đến giúp, mọi chuyện vẫn không ổn. Chuyên gia này đã mở van bên ngoài (để mở ra biển), trong khi van bên trong đã mở trước đó, khiến nước tràn vào trong tàu ngầm.
Khí độc trong tàu
Một lỗi nữa trong thiết kế của U-1206 lúc đó mới lộ ra. Khi lặn, tàu chạy bằng các động cơ điện từ những khối pin khổng lồ, đặt ngay dưới khu vực toilet. Khi nước biển tràn vào, đã hòa lẫn với acid trong pin, tạo ra một thứ khí chlorine độc hại, lan tỏa khắp thân tàu.
Khí độc ngập đầy trong tàu ngầm, Schlitt buộc phải ra lệnh cho tàu nổi lên để thoát khí chlorine và đưa khí trong lành trở lại khoang tàu. Vì tàu nổi lên trong tầm ngắm của bờ biển Scotland, nên U-1206 nhanh chóng bị máy bay của quân Đồng minh phát hiện và tấn công. Một thủy thủ thiệt mạng trong lúc hỗn loạn, ba người khác bị rơi ra ngoài và chết đuối.
Tàu U-1206 bị hư hại nghiêm trọng sau vụ tấn công, và không thể lặn được nữa.
Thấy không còn cách nào cứu vãn con tàu, Thuyền trưởng Schlitt ra lệnh thủy thủ xuống tàu cứu sinh, rồi ông cho đắm tàu. U-1206 là con tàu duy nhất trong lịch sử hải quân bị chìm vì hỏng toilet. 36 thành viên trong thủy thủ đoàn được các tàu nhỏ trong khu vực cứu hộ, 10 người khác cập bờ và bị bắt.
Chỉ hơn 20 ngày sau thảm họa với tàu U-1206, trùm phát xít Adolf Hittler tự sát tại Berlin. Bảy ngày sau đó, Đức đầu hàng quân Đồng minh. Thế chiến II tại châu Âu kết thúc.
Thủ tướng Anh Winston Churchill sau đó thừa nhận, &’điều duy nhất khiến ông khiếp đảm lúc đó chính là hiểm họa mà tàu ngầm lớp U (của Đức) gây ra’. Tuy nhiên, khả năng sống sót của tàu ngầm Đức thời đó khá mong manh. 75% toàn hạm đội tàu ngầm U bị đánh chìm trong cuộc chiến, và 30.000 trong số 40.000 quân nhân trên tàu cùng nằm lại dưới biển.
Có thể chính chiếc toilet hỏng đưa con tàu U-1206 xuống đáy đại dương, nhưng lại cứu sống 46 thủy thủ trên tàu.
Theo Vietnamnet
Dự án chế tạo siêu tàu sân bay bằng băng của Anh
Quân đội Anh từng lên kế hoạch chi tiết nhằm sản xuất một tàu sân bay bằng băng cỡ lớn có thể chống lại được các cuộc tấn công bằng ngư lôi của phát xít Đức.
Mô hình siêu hạm Habbakuk của Anh. Đồ họa: acidpotion.com
Thời gian đầu Thế chiến II, sau nhiều lần hứng chịu thiệt hại do tàu ngầm và tàu chiến phát xít Đức gây ra, Anh tìm cách đóng một chiến hạm với mục tiêu khắc chế được ngư lôi hoặc có thể chịu được đòn tấn công mạnh mà không bị chìm, theo History.
Do tình trạng khan hiếm thép và nhôm, nhà khoa học Anh Geofrey Pyke đã đề xuất dự án Habbakuk nhằm xây dựng một siêu tàu sân bay dài hơn 609 m, rộng hơn 91 m và nặng 2 triệu tấn từ một vật liệu đặc biệt có sẵn trong tự nhiên là băng.
Theo Pyke, ưu điểm của băng là sử dụng được trong thời gian tương đối lâu, có thể nổi trên mặt nước và tiện sửa chữa nếu bị hư hại.
Siêu hạm này cũng được trang bị 40 pháo nòng kép và các pháo phòng không, một đường băng dài có thể chứa tới 150 chiến đấu cơ hoặc oanh tạc cơ hai động cơ.
Năm 1942, Pyke đã trình thiết kế tàu Habbakuk cho Thủ tướng Anh Winston Churchill kèm khuyến nghị nên coi việc đóng siêu hạm này là ưu tiên cao nhất.
Tuy nhiên, khi thử nghiệm, các kỹ sư Anh nhận thấy các tảng băng không đạt độ cứng như trong ý tưởng của Pyke. Phần vỏ tàu làm từ băng có thể dễ dàng bị vỡ chỉ bằng một cái búa. Do vậy, dự án này tạm thời bị đình chỉ.
Một năm sau, một công ty đa ngành ở New York đã đưa ra một giải pháp đầy hứa hẹn để làm thân tàu bằng cách thêm hợp chất cellulose như mùn cưa, dăm gỗ và vụn giấy vào nước và đóng băng chúng. Không chỉ cứng hơn nước nguyên chất đóng băng, nó còn chậm tan chảy và có độ nổi tốt hơn. Pyke có thể dễ dàng cắt và ghép tạo hình cho tàu.
Lúc này có một vấn đề mới phát sinh là quá trình tan chảy và tái đóng băng khiến cấu trúc tàu bị cong vênh. Để khắc phục, phần nổi của tàu được phủ lớp cách nhiệt cũng như một thiết bị đông lạnh và một hệ thống ống dẫn.
Nhà khoa học Anh Geofrey Pyke và gia đình. Ảnh: History
Để kiểm tra tính khả thi, một phiên bản tàu Habakkuk thu nhỏ đã được đóng ở Alberta và đưa đến hồ Patricia của Canada để thử khả năng cách nhiệt, tái làm lạnh và chống chịu pháo kích.
Nguyên mẫu này dài hơn 18 m, rộng 9 m, nặng 1000 tấn và được duy trì đông lạnh nhờ một động cơ một mã lực, đủ để giúp nó không bị tan chảy trong thời tiết nắng nóng của mùa hè.
Trong bài thử nghiệm sức công phá của đạn pháo, một quả ngư lôi bắn trực tiếp vào tàu chỉ xuyên phá được hơn 3 m, không đáng kể so với kích cỡ tàu như đề xuất. Bởi vậy nó gần như không bị ngư lôi phá hủy. Ngoài ra, tàu này có thể sửa chữa nhanh chóng ngay trên biển.
Dù vậy, việc đóng tàu với kích cỡ thực lại không khả thi. Chi phí đóng tàu Habakkuk khi ấy khoảng 2,5 triệu USD (khoảng 32 triệu USD hiện nay) được cho là quá đắt đỏ.
Trong khi đó, vẫn còn một số vấn đề cần khắc phục như bánh lái của tàu phải lớn và phải được lắp vào một cấu trúc chống chịu được đòn tấn công của địch.
Ngoài ra, các nhà máy giấy ở Anh dù có làm việc hết công suất cũng khó có thể cung cấp đủ lượng bột gỗ cần thiết để chế tạo tàu sân bay bằng băng. Dù không tốn nhiều thép như các tàu khác nhưng số ống thép cần để gia cố cấu trúc của tàu Habbakuk cũng đủ làm cạn kiệt nguồn dự trữ dành để đóng các tàu chiến thông thường đã trải qua thực chiến khác.
Tốc độ tối đa chỉ 11-12 km/h của tàu được cho là quá chậm, dù phần cấu trúc chính của nó chịu được sức công phá của ngư lôi.
Ngoài những vấn đề nêu trên, trong giai đoạn lập kế hoạch đóng siêu hạm này, tầm hoạt động của máy bay đã tăng lên đáng kể, khiến dự án Habbakuk bị hủy bỏ.
Dù kế hoạch đóng siêu hạm Habakkuk chỉ kéo dài trong thời gian ngắn, nhưng nguyên mẫu của nó có độ bền đáng ngạc nhiên. Trải qua ba mùa hè nóng bức, phiên bản thu nhỏ để thử nghiệm của nó mới tan chảy hoàn toàn.
Duy Sơn
Theo VNE
Tăng Maus - siêu vũ khí thảm hại của Hitler Sở hữu lớp giáp cực dày, kích thước đồ sộ và hai khẩu pháo lớn, xe tăng Maus lại có trọng lượng quá nặng, khó có thể cơ động linh hoạt trên chiến trường hiện đại. Mô hình xe tăng Maus của Đức. Ảnh: Wikimedia Sau trận đại chiến tăng ở Kursk vào tháng 8/1943, phát xít Đức liên tiếp hứng chịu thất...