Bí ẩn những người có thể bay được và tìm lời giải
Nhiều tài liệu cổ phương Đông và Tây ghi chép khá tỉ mỉ về việc con người có thể bay lên nhờ thuật khinh công mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào.
Nhiều tài liệu cổ phương Đông và Tây ghi chép khá tỉ mỉ về việc con người có thể bay lên nhờ thuật khinh công mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào.
Từ xưa, con người đã có mơ ước bay dược như chim trời. Có lẽ vì thế, không ít người và đặc biệt là các giáo phái bí ẩn đã luyện tập để chống lại định luật vạn vật hấp dẫn.
Từ phép khinh hành
Võ sư Phạm Đình Thắng (Võ đường Duy Thắng, Thái Nguyên) là người có nhiều năm nghiên cứu và thực hành khinh công cho biết, đến thời điểm này, khoa học chưa có cách nào giải thích hiện tượng khinh công vì nó đi ngược lại hoàn toàn định luật vạn vật hấp dẫn của nhà bác học Newton.
Nhiều tài liệu cổ của phương Đông và phương Tây ghi chép khá tỉ mỉ về khả năng con người có thể bay lên mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào. Tuyệt kỹ khinh công đó là sự thực chứ không phải là trò ảo thuật. Tuy nhiên, vì các cao thủ không truyền lại bí quyết nên đời sau cứ phải mò mẫm.
Khinh công (Levitation) là kỹ thuật tự bay trong không khí mà không cần trợ giúp. Các sách tôn giáo có ghi nhận 300 người thành công trong việc tự bay lên khỏi mặt đất trong khoảng thời gian dài.
Pha khinh công đầu tiên được ghi lại là do Simon Magus thực hiện vào thế kỷ 1. Ông là một giáo sĩ theo dòng dị giáo, tham gia tập luyện nhiều “tà thuật” như phép tàng hình, khinh công. Người thực hiện pha bay lượn trong thời gian lâu nhất là Joseph Cupertino thế kỷ XVII. Giáo sĩ đạo Tin Lành này đã lơ lửng trong không khí khoảng 2 tiếng đồng hồ.
Khinh công trên mặt nước.
Những đạo giáo khác như Hindu, Bà la môn và Phật giáo cũng ghi nhận nhiều trường hợp khinh công. Trong cuốn sách “Khoa học huyền bí ở Ấn Độ thời cổ đại”, tác giả Louis Jacollios người Pháp đã ghi lại khá chi tiết các trường hợp bay được mà ông chứng kiến và kiểm nghiệm.
Theo võ sư Thắng, một kỹ thuật thấp hơn của khinh công là khinh hành (tức là đi bộ cực nhanh – PV), khá phổ biến tại các khu vực có địa hình phức tạp ở Trung Quốc và Nhật Bản. Những người tập khinh hành có thể đi lại rất nhanh và an toàn ở những nơi núi non hiểm trở, bằng kỹ thuật phi thân và thần hành, tức chạy hàng trăm dặm mà chân không chạm đất. Cùng với đó là phép “bích hổ du tường”, tức thằn lằn leo tường và chạy trên nước.
“Đây là những môn thực hành hoàn toàn có thật chứ không bịa đặt hay tưởng tượng. Tuy khinh hành chỉ là dưới cấp độ khinh công, nhưng để có thể bay lơ lửng được thì phép khinh hành phải thông thuộc trước đã”, võ sư Thắng khẳng định.
Một nhân vật trong truyện Thủy Hử của Thi Nại Am thông thạo phép khinh hành đó là Đới Tung. Người này được mệnh danh là “thần hành”, tức có phép thần hành chạy nhanh như gió, có thể vượt núi, leo tường, đi qua sông mà chân không chạm mặt đất.
Một nhà sư Tây Tạng thực hiện khinh công bay khỏi mặt đất.
Đến thuật khinh công
Theo võ sư Phạm Đình Thắng, khinh công thực chất là một phương pháp làm nhẹ cơ thể. Đó là những kỹ pháp đặc biệt khó luyện, đòi hỏi hàng chục năm miệt mài mới đạt mức thành tựu trung bình.
Phương pháp này cũng được gọi là “khinh thân thuật” hay “khinh thân công”. Luyện chạy nhanh, thân thể nhẹ nhàng. Luyện ban đầu bằng cách chạy trên thành chum đựng nước, sau bỏ nước dần dần. Cuối cùng chạy trên nền cát cho đến khi linh hoạt đến mức cát không bị tung lên, chân không dể lại dấu.
Video đang HOT
Đến khi thành thục và trở thành thói quen, thì việc lơ lửng trên không là điều hoàn toàn đạt được. Nổi tiếng nhất là tu sĩ Milarepa, một nhà yoga hàng đầu ở Tây Tạng thuộc thế kỷ XIX. Ông này được mệnh danh là người nắm giữ nhiều sức mạnh huyền bí đến nỗi có thể đi lại, ăn, ngủ lơ lửng giữa không khí.
Khác với những giáo sĩ Bà La Môn và thuật sĩ Yoga của châu Á, các tu sĩ châu Âu thường lơ lửng trong không trung khi đạt đến trạng thái xuất thần.
Khả năng con người bay như chim vẫn là dấu hỏi lớn.
Theo tài liệu ghi chép lại, Thánh Theresa, nữ tu dòng Carmelite, là một trong những người có thuật khinh công. Bà đã bay trước sự chứng kiến của 230 tu sĩ Công giáo.
Thế nhưng, bà lại nỗ lực cầu nguyện, xin thoát khỏi năng lực đặc biệt này. Và từ đó, người nữ tu không bao giờ còn bay được nữa.
Bên cạnh đó cũng có khá nhiều trường hợp không luyện tập một môn võ hay thiền định nào nhưng vẫn lơ lửng được. Điển hình là trường hợp của một cậu bé người Anh tên Henry Jones.
Năm Jones 12 tuổi, cậu bỗng xuất hiện khả năng bay lên đến trần nhà. Hiện tượng này kéo dài trong vòng 1 năm liền nhưng không hiểu sao sau đó, nó biến mất hoàn toàn.
Một nghệ sĩ đường phố biểu diễn bám tay vào tường và lơ lửng.
Tìm lời giải khoa học
Các nhà khoa học trên khắp thế giới đã khá đau đầu khi nghiên cứu về những trường hợp thắng được định luật vạn vật hấp dẫn. Sau rất nhiều kiểm nghiệm thực tế về những người có khả năng lơ lửng trên không, các nhà khoa học đều bác bỏ những lời đồn cho là bịp bợp hoặc ảo thuật.
Tuy nhiên, họ cũng không thể giải thích thấu đáo lý do tại sao con người có thể bay lên được và cơ chế vận hành việc đó ra sao. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, hiện tượng trên là kết quả các trường sinh học. Hiểu đơn giản, đó là dạng năng lượng tinh thần đặc biệt phát ra từ não người khi thiền định. Chỉ cần trường sinh học đủ lớn, con người có thể thắng được trọng lực, bay lơ lửng trên trời, gọi là trạng thái bán trọng lực.
Những người tập Yoga cũng có khả năng lơ lửng trên không.
Để chứng minh với toàn thế giới, rằng việc con người bay lên được khỏi mặt đất là hoàn toàn có thật và không bịp bợm, một nhà thám hiểm tên là Neel đã đến Tây Tạng tìm hiểu và luyện tập khinh công.
Thời gian sống cùng các thầy tu Tây Tạng, trải qua quá trình luyện tập khắc khổ và trong thời gian dài, cuối cùng Neel đã có thể bay lơ lửng cách mặt đất 40cm dưới sự chứng kiến của hàng trăm nhà khoa học và hàng ngàn người hiếu kỳ Châu Âu.
Như vậy, các nhà khoa học đã tạm kết luận, khi tập khinh công tức là con người đang làm cho cơ thể nhẹ đi với một trường sinh học thắng được định luật vạn vật hấp dẫn. Tuy nhiên, những nhân vật được cho là bay được thực chất cũng không thể bay được như chim mà chỉ là khả năng lơ lửng trên không mà thôi.
“Tôi từng chứng kiến một số cao thủ người Trung Quốc và Nhật Bản có khả năng lơ lửng trên mặt đất mà không dùng đến bất cứ một vật gì để bám víu. Khả năng đó rõ ràng là từ khinh công và thiền định mà ra chứ không hề bịp bợm, lừa đảo”.
Võ sư Phạm Đình Thắng
Trần Hòa
Theo_Kiến Thức
Giật mình với khả năng chịu đựng của cơ thể con người
Mức độ cực đại mà cơ thể con người có thể chịu đựng với nóng lạnh và đau qua những nghiên cứu khiến chúng ta giật mình
Mức độ cực đại mà cơ thể con người có thể chịu đựng với nóng, lạnh và đau qua những nghiên cứu khiến chúng ta giật mình.
Khi đau con người phải kêu lên, khi rét thì run và khi nóng thì vã mồ hôi. Tuy nhiên, mức độ cực đại mà cơ thể con người có thể chịu đựng với nóng, lạnh và đau qua những nghiên cứu khiến chúng ta giật mình.
Chịu được sức nóng 160 độ C
BS Nguyễn Ý Đức (Mỹ) cho biết, cũng như các động vật khác, khi sinh ra, con người đã được tạo hóa ban cho một hệ thống rất tinh vi để điều hòa và giữ nhiệt độ trong cơ thể ở mức độ bình thường trước những thay đổi đột ngột đến từ bên ngoài hay từ trong cơ thể.
Hệ thống này được sự phối hợp của bộ phận hypothalamus trong não bộ và của cơ bắp. Nhiệt độ trung bình của cơ thể thay đổi từ 36,2 độ C tới 37,6 độ C (tức từ 97 độ F tới 100 độ F). Độ F được các nhà khoa học Hoa Kỳ dùng, còn đa số các nước trên thế giới dùng độ Celsius với 0 độ là nhiệt độ nước đá, 100 độ là nhiệt độ nước sôi.
Nhiệt độ cơ thể chúng ta cũng thay đổi tùy theo thời gian trong ngày. Buổi sáng thấp vì cơ thể không được cung cấp năng lượng sau một đêm dài ngủ nghỉ; buổi chiều cao hơn vì các hoạt động trong ngày và thực phẩm tiêu thụ đã tạo ra nhiều nhiệt lượng. Nhiệt độ đo ở nách thấp hơn ở miệng và miệng lại thấp hơn ở hậu môn.
Thân nhiệt luôn luôn ở mức trung bình nhờ có sự cân bằng giữa tạo ra nhiệt và phân tán nhiệt. Nắng là ánh sáng mang thêm sức nóng của mặt trời trực tiếp chiếu xuống Trái đất. Nắng bức tăng dần từ sáng tới cao độ vào lúc trưa rồi giảm dần tới chiều và ban đêm.
Nhiệt độ trong không khí thường thấp hơn sức nóng mà ta cảm thấy vì ảnh hưởng của độ ẩm tương đối. Độ ẩm không khí càng cao ta càng cảm thấy nóng khó chịu hơn.
Một người biểu diễn màn nhúng bàn tay vào chảo dầu sôi.
Hiện nay, nước ta đã bước vào mùa hè nóng bức khiến con người khó chịu và sinh ra các loại bệnh tật. Tuy nhiên, theo BS Nguyễn Ý Đức thì chúng ta đừng quá lo lắng mà hãy học bí quyết để làm mát cơ thể.
Tùy cơ địa và môi trường sinh sống mà con người có thể thích nghi. Thông thường, ở sức nóng 50 độ C đã khiến chúng ta ngột ngạt. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã dăm lần bảy lượt làm thí nghiệm tăng nhiệt độ một cách từ từ và thấy con người có thể chịu đựng được tối đa đến 160 độ C, tức vượt quá độ sôi của nước đến 60 độ C.
Để kiểm chứng khả năng này, 2 nhà vật lý người Anh đã tự chui vào lò nướng bánh mỳ trong vài giờ đồng hồ. Kết quả thật đáng kinh ngạc khi họ vẫn sống sót. Kết luận được đưa ra là trong điều kiện lý tưởng môi trường khô ráo, con người có thể chịu được nhiệt độ cao tới 160 độ C. Vì sao lại như vậy?
BS Nguyễn Ý Đức cho hay: "Con người có 4 cơ chế thoát nhiệt: bức xạ, dẫn truyền, đối lưu và toát mồ hôi. Nhưng khi trời nóng thì 3 cách: bức xạ, dẫn truyền, đối lưu sẽ chỉ làm nhiệt độ cơ thể tăng lên. Khi đó, mấu chốt chính là nằm ở mồ hôi. Khi mồ hôi bốc hơi, chúng hút nhiệt lượng ở khu vực không khí xung quanh da, làm vùng khí này có nhiệt độ hạ thấp xuống dưới gần mức nhiệt độ của cơ thể".
Đó là khả năng chịu nóng khi nhiệt độ tăng dần đều. Còn việc nóng đột ngột thì con người chịu đựng có mức độ. Người viết bài này đã từng chứng kiến cảnh thầy Tào của người dân tộc Tày làm lễ cúng đi trên than đỏ, thậm chí nhúng tay vào nước sôi 100 độ C nhưng vẫn chịu đựng được dù phần da có bị bỏng tấy.
Wim Hof, 53 tuổi người từ Hà Lan đã 8 lần lập kỷ lục chịu lạnh.
Chịu lạnh ra sao?
Theo BS Nguyễn Ý Đức, con người nhận thức về cái lạnh bắt đầu hình thành khi các dây thần kinh trên da gửi các xung thần kinh về nhiệt độ của da lên não. Những xung thần kinh này không chỉ phản ứng với nhiêt độ của da mà còn phản ứng với tốc độ thay đổi nhiệt độ trên da.
Vì vậy, chúng ta cảm thấy rét hơn khi vừa nhảy vào nước lạnh so với khi đã ở trong nước lạnh một thời gian nhất định. Đó là khả năng thích nghi và điều này đã thu hút nhiều người trên thế giới thử xem cơ thể mình chịu lạnh đến nhiệt độ nào.
Câu chuyện của ông Wim Hof, 53 tuổi người từ Hà Lan đã 8 lần lập kỷ lục thế giới về khả năng chịu lạnh siêu phàm đã chứng minh điều đó. Người đàn ông này có thể đi dạo trên Bắc Cực với nhiệt độ lạnh giá là -20 độ C, lặn sâu dưới băng hơn 80m với một bộ đồ bơi bình thường và leo lên đỉnh Everest mà chỉ mặc một chiếc quần soóc. Ông cũng đã ngâm mình trong bể chứa đá cao 1,5m với khoảng thời gian là 1 giờ 12 phút.
Tuy nhiên, cơ thể con người sẽ bị tổn thương và dẫn tới tử vong do lạnh giá bởi hiện tượng máu giảm hoặc không thể lưu thông. Nếu con người phải chịu cơn gió lạnh -9,4 độ C thì mới xuất hiện sự tê cứng. Nhưng nhiệt độ không khí xuống dưới điểm đông 0 độ C thì đã tê cứng rồi.
Chịu đau cũng có gene
Không giống như "ngưỡng chịu đựng" về nóng và lạnh, khả năng chịu đau đớn của con người được các nhà khoa học tìm ra nguyên nhân bởi gene. Có những người chịu đau đớn rất giỏi, thậm chí có thể chịu đau đớn ở "ngưỡng đỏ", tức có thể dẫn tới tử vong.
Nhưng cũng có người chịu đau rất kém. Những người này khi bị kim tiêm xuyên vào tay sẽ đau đớn bằng người chịu đau giỏi bị dao đâm vào ổ bụng. Cho nên, khả năng chịu đựng đau đớn mỗi người có khác biệt.
Các nhà khoa học tìm ra 4 gene liên quan đến cảm giác đau đớn mang tên COMT, DRD2, DRD1 và OPRK1. Qua khảo sát hơn 2.700 người được kê toa thuốc có chứa ma túy để đối phó với cơn đau mạn tính, yêu cầu bệnh nhân tự đánh số điểm cơn đau từ 1 - 10 theo mức độ từ nhẹ đến nặng rồi phân thành 3 nhóm.
Số người tự nhận có cảm giác đau thấp chiếm 9%; nhóm có cảm giác đau trung bình chiếm 46% và nhóm có cảm giác đau cao chiếm 45%. Những người có gene DRD1 có cảm giác đau ít. Đối với nhóm có cảm giác đau trung bình, 2 gene COMT và OPRK1 thường thấy hơn. Trong khi đó, gene DRD2 thường phổ biến hơn ở những người có cảm giác đau nhiều.
Khả năng chịu đựng đau đớn của con người còn phụ thuộc vào yếu tố tâm lý, niềm tin. Điều này được chứng minh ngay ở những tù nhân chính trị mà thực dân Pháp và đế quốc Mỹ khi xâm lược Việt Nam đã bắt và tra tấn.
Những người tù chính trị, vì lý tưởng và niềm tin nên có thể chịu vượt qua cả "ngưỡng đỏ" của sự tra tấn. Thông thường, những cách làm cho con người đau đớn tột cùng như: Cưa răng, xuyên thanh sắt nung đỏ vào da thịt hay đánh dập xương sẽ khiến nạn nhân tử vong. Tuy nhiên, vì một niềm tin nào đó mà họ dễ dàng vượt qua, thậm chí cảm thấy ít đau đớn.
"Cơ thể con người là một tuyệt tác của tạo hóa. Trong đó, cơ thể có thể thích nghi với mọi điều kiện, từ nóng, lạnh đến cảm giác đau đớn. Tất nhiên, cũng có những "ngưỡng đỏ" khiến con người gục ngã. Nhưng với khả năng chịu đựng tối đa của con người ở mức nóng 1600C thì không phải sinh vật nào cũng làm được".
BS Nguyễn Ý Đức
Trần Hòa
Theo_Kiến Thức
Trung Quốc muốn "nhái" máy bay VTOL Yak-141 Nga Báo chí Trung Quốc cho rằng, các công ty hàng không nước này có thể sao chép mẫu máy bay Yak 141 của Liên Xô với sự trợ giúp từ Nga. Báo chí Trung Quốc cho rằng, các công ty hàng không nước này có thể sao chép mẫu máy bay Yak-141 của Liên Xô với sự trợ giúp từ Nga. Báo chí...