Bí ẩn ngôi huyệt phát kết nghiệp Đế Vương của họ Trần
Nhà Trần là một trong những triều đại lừng lẫy bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam với nhiều chiến công hiển hách.
Bi ân ngôi huyệt phát kết nghiệp Đế Vương của họ Trần
Ngôi huyệt này từ xưa tới nay được bao phủ bởi một hệ thống huyền tích dày đặc. Cũng do vị trí đắc địa của nó nên cả người đương thời lẫn hậu thế đều không biết chính xác ngôi huyệt nằm ở đâu. Những tài liệu ghi chép còn tới ngày nay cũng như truyền thuyết dân gian ở Thái Đường (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) chỉ giúp ta phần nào trong việc xác định ngôi huyệt quý đó mà thôi.
Từ câu chuyện được chép gần 300 năm trước
Những tài liệu còn giữ được tới nay đều cho rằng, tổ tiên họ Trần ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Sau họ Trần di cư về xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng (nay là xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) và làm nghề chài lưới để mưu sinh.
Cũng nhờ cơ duyên lạ lùng mà họ Trần đạt được ngôi huyệt đế vương và sau này tạo nên một vương triều lừng lẫy bậc nhất Việt Nam. Cách đây gần 300 năm, cụ Vũ Phương Đề đã nói tới chuyện này trong sách Công Dư Tiệp Ký tiền biên (chép năm 1755) như sau: “Lúc bấy giờ, một thầy địa lý Tàu sang nước ta xem đất.
Người này cứ chú theo long mạch chạy từ núi Tam đảo đi xuống, qua Thăng long, Cổ Bi (đều thuộc Hà Nội ngày nay) đến các xã Kệ Châu và Cao Xá (thuộc huyện Kim Động, Hưng Yên) thì thấy có nhiều đống đất hoàn tụ, bèn cười nói rằng: Đây quả là một nơi tốt để dấy nghiệp. Thế nhưng, được một đoạn thì khi không thấy dấu tích long mạch ở đâu nữa. Sau một hồi lâu, thầy địa lý Tàu phán đoán rằng: Nước sông chảy mạnh, không lẽ huyệt lại ẩn tàng dưới đáy sông.
Nói rồi, người này bèn sang sông đi đến Huyện Hà Liễu, Huyện Ngự Thiên (thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình) thấy các gò cao vươn thẳng dậy liền mừng rỡ mà reo lên rằng: Chỗ cất đầu lên ở đây, cứ xem mạch tụ ở xã Thái Đường thì huyệt đế vương tất nằm ở đây chứ không sai”.
Cũng theo ghi chép của cụ Vũ Phương Đề, thì sau khi phán đoán như vậy, thầy địa lý Tàu hạ la bàn để xem xét và cứ say mê, quanh quẩn mãi ở đấy không đi đâu. Lúc đó, có người tên Nguyễn Cố chợt đi đến đấy, thấy sự lạ bèn hỏi thầy địa lý Tàu rằng: “Ông cứ dùng la bàn đo quanh quẩn ở chỗ này, phải chăng nơi đây có ngôi huyệt kết hay sao?”. Thầy địa lý nghe vậy không nói, sau thấy Nguyễn Cố khẩn khoản nên than thở: “Nơi bình địa thế này mà có ngôi huyệt đế vương thật quả là hiếm có.
Tiếc rằng, thầy địa lý ngày nay không có nhãn lực”. Nguyễn Cố nghe xong, bèn hứa tặng cho thầy địa lý Tàu 100 quan tiền để tạ ơn. Nếu sau này lấy được nước rồi thì sẽ tặng cho người này một nửa đất nước. Hai bên thỏa thuận và Nguyễn Cố đem mộ cha mình táng vào ngôi huyệt quý đó.
Nhưng sợ Nguyễn Cố phản trắc, thầy địa lý Tàu bảo: “Táng xong tất có điềm lành. Nhưng trong hạn trăm ngày, thỉnh thoảng phải đến thăm nom. Nếu sau cơn mưa gió, sấm sét, thấy máu từ huyệt chảy ra thì lành ít, dữ nhiều, phải táng đi chỗ khác ngay”. Mấy ngày sau, quả có một tiếng sét rất to làm kinh động nhân dân và súc vật ở vùng ấy. Sáng hôm sau, Nguyễn Cố đi xem thì thấy ở các xã xung quanh ngôi huyệt có nhiều hòn đá nhô lên, gọi là đá tai mèo chứ không có máu chảy ra nên Cố biết là được đất rồi, rất lấy làm mừng rỡ.
Ấy thế nhưng, khi được đất rồi thì vợ chồng Nguyễn Cố sinh lòng phản trắc. Vợ Cố bảo rằng: “Ngôi đất ấy dầu cho là phát phúc nhưng hiện nay thì làm thế nào lo được 100 quan tiền. Vả lại, sau này chia đôi thiên hạ thì còn được bao nhiêu”. Cố thấy vợ nói thế, thì định bụng không tạ lễ cho người thầy địa lý Tàu kia nữa. Khi thầy Tàu đến hỏi thì Nguyễn Cố bèn bắt trói lại, rồi đang đêm đem vứt xuống sông. Nguyên chỗ Nguyễn Cố vứt thầy Tàu xuống là một bãi phù sa, nước thủy triều dâng lên ngập cả bãi.
Video đang HOT
Nhưng khi nước rút thì trơ lại một bãi đất khô. Lúc bấy giờ, có một chiếc thuyền đánh cá của Trần Hấp đi ngang qua đấy, nghe thấy tiếng kêu cứu của thầy Tàu liền tới cứu lên thuyền. Cảm tạ ơn cứu mạng, thầy địa lý Tàu bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện cho Trần Hấp nghe và tỏ ý muốn đem ngôi huyệt đó cho Trần Hấp để tạ ơn.
Trần Hấp nghe xong trong lòng không vui vì ngôi huyệt đã táng rồi, sợ rằng táng lại sẽ không còn linh nữa. Thế nhưng, người thầy kia bèn nói: “Tôi đã có cách, ngôi đất ấy thế nào nhà ông cũng được”. Quả nhiên, sau Trần Hấp được ngôi huyệt đó và họ Trần khởi phát nhanh chóng. Mấy chục năm sau thì nhà Trấn lấy được nước từ nhà Lý.
Đên những truyền thuyết
Khi chúng tôi về đền Trần ở Thái Bình để tìm hiểu thực hư câu chuyện, ông Cao Thanh Bốn, nguyên Giám đốc trung tâm văn hóa – thông tin – thể thao huyện Hưng Hà, phó trưởng ban khu di tích đền Trần Thái Bình cho biết: “Vùng đất này khi xưa là vùng bãi bồi của ngã ba sông Hồng và sông Luộc.
Người Việt cổ đã dựa vào những vùng đất nổi (hay còn gọi là gò) để sinh sống bằng nghề đánh cá và trồng lúa. Các cụ già trong làng ngày xưa vẫn bảo rằng, đây là đất mả sao, thiêng lắm. Đất đó chính là các gò đống nổi lên, ở trên có các chòm cỏ xanh hình tròn, trông từ xa chẳng khác gì những ngôi sao trên trời cả.
Vì thế mà nơi đây còn có tên gọi là hương Tinh Cương (nghĩa là những ngôi sao nổi lên). Điều đặc biệt là vùng đất này có hình thế rất lạ, được gọi là thế đất: Tiền tam thai, hậu thất tinh, ý nói đây là vùng đất phát đế vương”.
Cũng theo ông Bốn, truyền thuyết của người dân trong vùng kể lại rằng, ngày ấy có một thầy địa lý tài ba dành cả đời đi khắp nơi, tới cả chốn sơn cùng, biển tận để tìm đất có vị thế đẹp cho các nhà quyền quý táng mộ.
Khi đến vùng Tinh Cương (làng Tam Đường, xã Tiến Đức, Hưng Hà ngày nay) thấy có một gò hoả tinh nổi lên trên mặt nước, xung quanh có nhiều gò nhỏ, thầy địa lý đã ngạc nhiên mà thốt lên: “Giữa vùng sông nước sát với đất bằng mà có những gò đống nổi lên, hẳn không phải là hoang địa”. Sau vì ơn cứu mạng mà ngôi huyệt đó được tặng cho người đánh cá tên Trần Hấp.
Theo chỉ dẫn của thầy địa lý, Trần Hấp di mộ cha từ Tức Mặc về đặt tại gò Hỏa Tinh, tiền của tốn rất nhiều. Mộ đặt tại hướng Càn (hướng Bắc) nhìn ra ngã ba sông Hồng, tục gọi là cửa Vàng. Phía sau gối lên cổ bi phục tượng, tả hữu la liệt cờ trống. Huyệt lại ở vị trí “Thổ phúc tàng Kim” (trong đất giấu vàng) nên sau khi táng xong, thầy địa lý bèn bảo với Trần Hấp rằng: “Phấn đại liên hoa đối diện sinh, hẳn sẽ lấy được thiên hạ” (ý nói sau này nhờ phụ nữ mà lấy được thiên hạ).
Truyền thuyết của dân vùng này về ngôi huyệt quý là như vậy. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc (đây được coi là cuốn sử cổ nhất do con cháu họ Trần sống lưu vong ở Trung Quốc đầu thế kỳ XIV viết) cũng chép như sau: “Phủ Long Hưng tên cũ là hương Đa Cương, tổ tiên nhà Trần lúc còn hàn vi ban đêm đi qua một cái cầu khe.
Khi đi qua rồi nghoảnh lại không thấy cầu đâu nữa nên lấy làm sự lạ bèn di chuyển sang đất Thái Đường sinh sống, được gò hỏa tinh đắc địa mà sau này được nước. Khi lấy được nước rồi thì đổi tên Đa Cương thành Long Hưng phủ”.
Sau khi được nước rồi, nhà Trần coi Thái Đường là tông miếu, là nơi xây dựng lăng miếu cho những vị vua khi qua đời. Tương truyền rằng, sau khi đánh đuổi giặc Mông – Nguyên xâm lược lần thứ ba, thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông đã đưa những tên tướng giặc bị bắt như: Nguyên soái Ô Mã Nhi, Tham chính Sầm Đoạn, Phàn Tiếp … đến đây làm lễ mừng chiến thắng.
Cũng tại nơi này, vua Trần Nhân Tông đã đọc hai câu thơ nổi tiếng: “Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ điện kim âu” (xã tắc hai phen chồn ngựa đá, non sông nghìn thưở vững âu vàng”.
Thầy địa lý Tàu phá huyệt của Nguyễn Cố
Thầy địa lý Tàu bèn bày cho Trần Hấp lấy đồng đỏ đúc lưỡi tầm sét và lấy cây vang nấu nước để dùng. Một đêm mưa to gió lớn, tiếng sét ấm trời. Thầy địa lý tàu đợi đến khi mưa tạnh, cùng Trần Hấp mang lưỡi tầm sét cắm xuống mộ tổ của Nguyễn Cố, xuyên thủng đến quan tài, rồi lấy nước vang tưới vào mộ. Sáng hôm sau Nguyễn Cố ra thăm, cho là mộ bị sét đánh, có máu chảy ra, vội vàng rời mộ ra chỗ khác. Trần Hấp liền màn hài cốt của cha táng vào đó.
Theo Xahoi
Mất vợ vì 20 năm ôm mộng tìm kho báu của Đế vương Phù Nam xưa
Sau lần nhặt được những miếng vàng lá tại khu vực Giồng Cát bên chân núi Ba Thê, ông Mọi đinh ninh rằng, ở dưới nền đất khu vực này còn chứa nhiều vàng. Nếu tìm thấy thì không những vợ con thoát khổ mà ông sẽ là "đế vương" của vương quốc Phù Nam xưa...
...Từ đó, lão nông này để vợ con ở nhà, một mình ngày đêm ngụp lặn bên cánh đồng cổ Óc Eo săn lùng kho báu.
Những cổ vật ở di chỉ Óc Eo
Nhưng rồi, ông đã rơi vào tình cảnh bi hài. Khi giấc mơ đổi đời chưa thành hiện thực thì người vợ đầu ấp má kề đã bí mật bán luôn căn nhà mồ hôi nước mắt chồng vợ chung lưng đấu cật xây dựng. Tan "giấc mộng đế vương", ông lủi thủi cất chòi một mình sống dưới chân núi Ba Thê và rồi lại đi...tìm vàng.
Mải tìm vàng đến nỗi... mất vợ
Chúng tôi gặp ông Phạm Văn Mọi (56 tuổi, Ấp Trung Sơn, thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) vào một buổi trưa nắng gắt khi ông đang cặm cụi đào bới cùng 10 người khác trên một bãi đất nhuốm màu sàng sứ ở vùng Óc Eo. Nhưng lần này, ông không phải tìm vàng mà đang đào huyệt giúp cho một người bà con dưới chân núi Ba Thê. Khi biết chúng tôi tới tìm hiểu về cuộc khám phá kho báu, ông nhất quyết từ chối với lý do không muốn nhắc lại quá khứ buồn. Thế nhưng, sau hồi thuyết phục, ông cũng bỏ chiếc cuốc xuống và dẫn chúng tôi tới một bụi cây rồi ngược ký ức như giốc bầu tâm sự. "Nói thật, thương cô chú lặn lội từ xa lên tìm nên tôi mới tiếp chuyện thôi. Đây là chuyện quá khứ rồi, nó mang lại cho tôi nhiều chuyện đau lòng lắm nên tôi không muốn nhắc lại. Vợ con, nhà cửa đã mất hết cũng vì vàng, giờ tôi phải lên núi ở một mình", ông Mọi giọng bẽ bàng.
Ông Mọi trò chuyện với PV. Ảnh TG
Kể về câu chuyện tìm thấy vàng năm xưa, ông Mọi nói: "Ngày đó, gò Giồng Cát đông như cái chợ, ngày cũng như đêm chưa bao giờ ngớt tiếng đào xới. Người ta mang cả bún, cà phê, quán đèn mờ vào bãi giải trí. Người có tiền thì trả tiền hoặc trả bằng vàng, cổ vật vừa đào được. Đội quân đào, bòn vàng đến từ các nơi, nhiều hộ đi cả nhà trên ghe hoặc che lều tạm tại "hiện trường" có khi nhiều tháng trời mới chuyển chỗ". Lúc đó, ông là Xã đội phó xã Tân Phú (huyện Châu Thành), thấy ai cũng đi kiếm vàng, nhà lại quá khó khăn nên ông cũng lén đi "săn" thử. Vài ngày sau, khi đào xuống đất nghe cái sột, lộ ra cái hộc gạch, trong có nhiều miếng vàng mỏng như lá lúa, rồi đầu lân, nồi đất, ngựa, rắn, kèn thổi... (bằng gạch, đá xanh) được chế tác rất đẹp mắt, cùng rất nhiều xương không biết của người hay động vật. Mừng quá, ông đem ra tiệm vàng Bi ở chợ, khi "thổi" ra còn chưa đầy 3 cây, bán khoảng 300.000 đồng. Các thứ mà bây giờ cho là cổ vật, ông bỏ lăn lóc, cho con trẻ chơi.
Ông Trần Hữu Phước (82 tuổi, nguyên Chủ tịch UBND huyện Thoại Sơn) cho biết: "Khoảng hơn 70 năm trước, nhiều người dân Ba Thê khi cày ruộng đã vô tình lượm được các chuỗi hồng ngọc và các món trang sức bằng vàng như: nhẫn vàng, mão vàng, vàng nén thỏi to bằng quả trứng gà... trên cánh đồng. Ban đầu, người dân địa phương chưa nhận rõ giá trị nhưng sau đó những người lạ, ông thầy địa lý xuất hiện liên tục nên họ mới biết vùng đất này có kho báu. Đến năm 1976, có đoàn khảo cứu trong nước về khai quật tiếp nền văn hóa xưa và phát hiện thêm những cổ vật cùng hạt lúa cổ nằm vùi sâu dưới lớp đất của vùng Óc Eo. Những thông tin dồn dập về kho báu Vương quốc cổ Phù Nam đã khiến các tay bòn vàng mở rộng tìm kho báu. Chính vì vậy, nhiều người dân nơi đây đã bị lôi kéo vào cuộc tìm kiếm kho báu tưởng tượng ấy.
Thế nhưng, khi đang nhiệt tình kể về câu chuyện mình đi săn vàng, ông xã đội phó bỗng nhiên im lặng, trên khuôn mặt đen sạm của ông hai hàng nước mắt đã lăn dài. Ông khóc vì nhớ lại chuỗi ngày cơ cực, bất hạnh của mình sau khi trúng "kho báu". Ông tiếp mạch chuyện: "Hồi ấy, có trong tay 300.000 đồng cũng lớn lắm chứ. Có tiền tôi liền mua sắm đồ đạc trong nhà và mua đôi trâu cho thằng con trai trông nom. Còn tôi, ngày nào cũng một mình lặn lội lên khu vực chân núi Ba Thê đào bới những mong sẽ gặp được may mắn lần nữa. Lúc đầu thì cũng kiếm được một ít đồ vật và mấy miếng vàng lá, sau đó thì ít hẳn, có ngày về tay trắng. Chính vì mình đi tối ngày như vậy nên đã không quản được vợ con. Sẵn có số tiền tôi kiếm được, vợ tối ngày chúi đầu vào bài bạc, con thì ăn chơi lêu lổng. Cuối cùng vợ tôi đã bí mật bán luôn căn nhà nướng vào sới bạc". Chuyện là, vào năm 1992, sau một chuyến đi đào vàng trở về, ông Mọi gặp hai người đàn ông lạ mặt tới cắm đất nhà mình. Khi hỏi ra mới biết, vợ ông thua bạc nên đã cắm cả nhà, đất cho họ. Quá bực mình với người vợ hư hỏng, ông liền bỏ lên núi sống một mình. Sau đó, vợ ông cũng dắt con bỏ đi nơi khác không còn liên lạc với ông nữa.
Vẫn kiên trì với giấc mộng đổi đời từ kho báu cổ
Khu đất ngày trước được ông Mọi tìm thấy vàng. Ảnh TG
Mọi người xứ Óc Eo vẫn nhớ mãi một gia đình 4 người ở xã Tây Phú gây "chấn động" giới đào, bòn vàng thời đó. Sau nhiều tháng kiên trì tìm kiếm, các thành viên gia đình đào được một thùng vàng, không ai biết đích xác là bao nhiêu do chủ nhân đã lui ghe đi mất. Vì lý do này mà ông Mọi lúc nào cũng tưởng tượng rằng, ở một nơi nào đó sẽ còn rất nhiều vàng vì vương quốc Phù Nam xưa rất giàu có. Thế nhưng, cho dù ngày nào cũng đào bới hết nơi này tới nơi khác thì kho báu vẫn "lẩn trốn" ông. Với quyết tâm đổi đời bằng được, ông Mọi chỉ cần nghe nơi đâu có vàng là lại mang cuốc tìm tới. Có những lần, ông đi cả tuần mà không tìm được gì. Không những thế, vì một mình sống trên núi heo hút ông thường phải nhịn đói cả mấy ngày trời, chỉ đợi có người quen đi ngang qua thì xin ăn. Vậy mà, cứ tỉnh dậy ông lại lết đi tìm thứ ảo vọng mà hơn 20 năm nay nó đã biến ông từ một xã đội phó thành kẻ thân tàn ma dại. "Tuy rằng tôi chưa tìm ra kho báu nhưng chắc chắn một ngày nào đó tôi sẽ có được.
Ở nơi này đâu cũng có báu vật, chỉ cần mình thành tâm thì thế nào cũng có", nói đến đây đôi mắt ông Mọi lại sáng lên. Thế nhưng, theo ông thì dù nhiều năm kiên trì đào bới khắp các ngõ ngách của vùng núi Ba Thê, ông cũng chỉ tìm được toàn những tàn tích cổ xưa. Họa hoằn lắm ông mới nhặt được chiếc vòng, chén bát mẻ không mấy giá trị. Ông Mọi lôi ra từ trong túi một sợi dây chuỗi bằng đá khoe là chiến tích cách đây 3 ngày của ông.
"Chuỗi này là tôi đào được sau chùa Linh Sơn, nhìn vậy thôi chứ chắc có giá lắm. Bữa nào tôi mang xuống huyện coi ai mua được giá thì tôi bán. Khu vực chùa này lúc trước là nền của cung vua nên còn nhiều báu vật lắm. Nhưng giờ là chùa nên không ai dám vào đào. Tôi cam đoan rằng, nó đang ẩn chứa một kho báu khổng lồ của vị vua xưa cũng nên", ông Mọi khẳng định. Chúng tôi tạm ngắt ngang "giấc mộng đế vương" của ông và hỏi: "Sao ông không tìm việc khác để làm?". Lão nông thành thật: "Giờ tôi có tuổi rồi, cũng đâu làm gì được nữa, chỉ có thể quanh quẩn ở khu vực này thôi nên không tìm vàng thì tôi biết lấy gì mà sống".
Người dân quanh vùng núi Ba Thê lâu nay thường coi ông Mọi là một kẻ gàn dở. Bởi đang sống yên ổn, có chức quyền, vợ con đề huề nhưng vì vàng mà ông mất tất cả. Người ta trách bà vợ bạc tình bao nhiêu thì cũng dè bỉu ông cái tật say vàng đến mê muội. Chúng tôi dời núi Ba Thê khi buổi chiều chập choạng. Ông Mọi đôi mắt đượm buồn, tuổi bóng xế đã cận kề, có lẽ chỉ có bệnh tật khiến đôi chân ông không đi được nữa thì ông mới chùn bước trên con đường tới giấc mơ...vàng.
Tiến sĩ Ngô Quang Láng (Trưởng ban quản lý Khu di tích Óc Eo - Ba Thê), cho biết: Hiện nay gò Cây Thị nằm trong khu vực nền văn hóa Óc Eo của Vương quốc Phù Nam xưa vẫn còn giá trị về mặt khảo cổ. Nạn bòn vàng bây giờ không còn, có chăng kho báu còn ẩn trong lòng đất cổ ở vùng Ba Thê, Thoại Sơn nói riêng và vùng Thất Sơn nói chung là những cổ vật của người Phù Nam để lại cùng một nền văn minh ẩn chứa nhiều điều huyền bí. Thế nhưng, điều đáng buồn là cơn sốt vàng năm xưa của người dân đã xóa đi nhiều giá trị cổ.
Theo Hồng Châu - Lê Hằng
Gia đình & Xã hội
Quan chức sống như... đế vương! "Một bộ phận quan chức có mức sống khiến người dân phai đăt câu hỏi: Tiền họ lấy ở đâu ra mà mua được nhà to, ô tô riêng, cho con du học? Ảnh minh họa. Nếu đó không phải là những đồng tiền không trong sạch thì đồng lương có đảm bảo nổi không? Chắc chắn là cán bộ không thể giàu...