Bí ẩn ‘hợp chất huyền thoại’ bảo vệ lăng mộ cổ ở Việt Nam
Tại Việt Nam, sự xuất hiện của hợp chất ô dước trong các kiến trúc lăng mộ cổ đã khiến cả thế giới phải kinh ngạc vì sự sáng tạo và kỹ thuật xây dựng của người Việt thời xa xưa.
Ô dước theo lịch sử xây dựng, được mệnh danh là “hợp chất huyền thoại”. Sở dĩ vậy là vì hợp chất này bền vững vô song, là loại vật liệu có thể khiến các công trình trường tồn với thời gian.
Hợp chất “bất khả phân ly”
Cách đây mấy mươi năm về trước, người ta đã bắt đầu xôn xao về thứ vật liệu “cứng hơn đá”, dùng đắp lên quách của những ngôi mộ cổ. Lúc sinh thời, chuyên gia Đỗ Đình Truật, nguyên là cán bộ khảo cổ học của Viện KHXH&NV đã từng là người vô cùng “mê đắm” thứ vật liệu thuộc loại bền vững vô song này.
Ô dước bền chắc đến mức tưởng chừng như nếu không có các dụng cụ kỹ thuật hiện đại thì không sức lực nào có thể phá vỡ được. Những ngôi mộ được đắp bằng loại vật liệu này thường được nhắc đến bằng cái tên chung chung là “mộ hợp chất”, nghĩa là chất liệu “tổng hòa của nhiều chất”.
Chính vì sự bền vững “bất khả phân ly ấy” nên người ta thường mệnh danh ô dước là “hợp chất huyền thoại” và ngày xưa chỉ có tầng lớp quyền quý mới được mộ táng bằng ô dước.
Tuy nhiên, vì khởi thủy của hợp chất này được kết dính bằng nhựa cây ô dước, nên người ta vẫn thường gọi là “hợp chất ô dước”.
Nhìn bên ngoài, hợp chất ô dước khi đã khô thường có màu trắng đục, xám nhạt nên nhiều người tưởng lầm là đá khối. Ô dước càng để lâu càng bền, tuyệt đối không thấm nước. Trong khi các loại vật liệu khác thường bị nước mặn bào mòn, nhưng đối với ô dước, việc bị ngâm trong nước biển, nước phèn chỉ khiến loại hợp chất này thêm bền chắc.
Các tài liệu nghiên cứu của cố chuyên gia Đặng Đình Truật còn chỉ ra rằng, hợp chất này khác bê tông xi măng ở chỗ, nó không chỉ cứng mà còn dai. Khi tác dụng lực vào hợp chất ô dước, lực không tỏa ra đối tâm như ở đá hoặc bê tông, mà nó phản lại, triệt tiêu lực ngay tại chỗ.
Chính vì sự bền vững “bất khả phân ly ấy” nên người ta thường mệnh danh ô dước là “hợp chất huyền thoại” và ngày xưa chỉ có tầng lớp quyền quý mới được mộ táng bằng ô dước.
Hiện nay, tại khu vực TP. HCM có khá nhiều ngôi mộ ô dước vẫn còn nguyên vẹn. Như ngôi mộ đôi nằm trong công viên Tao Đàn, Quận 1. Khu mộ này được các nhà nghiên cứu xác định là mộ ông bà Lâm Tam Sư. Tuy đã tồn tại qua 2 thế kỷ nhưng khu mộ hầu như không bị bào mòn với thời gian.
Ngôi mộ đôi bằng ô dước ở giữa lòng công viên Tao Đàn, TP.HCM
Hay quần thể mộ cổ Gò cây Quéo tọa lạc tại khu phố 5, phường Bình Trưng Đông, quận 2, được các nhà nghiên cứu xác định mốc thời gian xây dựng là vào khoảng hơn 200 năm về trước.
Khu mộ “bị xiềng xích” ở Long Khánh, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, cũng tồn tại hơn 200 năm cũng là một minh chứng cho sự trường tồn của hợp chất ô dước.
Video đang HOT
Đi tìm công thức phục chế thất truyền
Hầu hết các lăng mộ cổ đắp bằng ô dước khi khai quật lên đều tìm thấy xác ướp. Các tài liệu lịch sử cho rằng, điều này tượng trưng cho ước nguyện “giữ xác vĩnh hằng” của cha ông ta ngày xưa.
Kỹ thuật ướp xác cổ xưa của người Việt thường dùng tinh dầu ngọc am, có tác dụng diệt khuẩn, giữ xác bền vững, nguyên đẹp, không bị phân hủy. Kết hợp với ô dước đắp bên ngoài, không thấm nước, có khả năng chống chịu ngoại lực đã làm nên một loại hình mộ táng rất đặc thù, trở thành một nét văn hóa rất đáng tự hào của người Việt Nam.
Bởi tính bền vững vô song của ô dước, nên không ít các nhà nghiên cứu đã đi sâu tìm hiểu công thức pha trộn bí ẩn hình thành nên loại hợp chất “huyền thoại” này.
Theo một số tài liệu nghiên cứu khảo cổ, hợp chất ô dước là loại vật liệu đặc biệt tạo chất kết dính trong nghệ thuật xây dựng của người Nam Bộ. Ô dước gồm: mật đường, vôi và nhựa cây ô dước. Cây ô dước có hai loại, ô dước giồng (còn gọi là cây Hậu phác) và ô dước sông, trong đó chỉ loại ô dước sông mới sử dụng làm vật liệu xây dựng.
Tuy nhiên, ô dước lại là loài cây quý hiếm, khó tìm và nếu có tìm được thì nhựa chiết được cũng không đủ để làm chất kết dính nên người xưa đã dùng nhựa cây tơ hồng để thay thế. Dây tơ hồng sau khi được cắt xuống sẽ đem ngâm trong nước khoảng 7 – 8 ngày. Đến khi nước ngâm tơ hồng trở thành một loại nhớt đặc quánh mới đem trộn cùng các vật liệu khác để tạo ra “hợp chất huyền thoại” – ô dước.
Theo PGS – TS Phạm Đức Mạnh, hợp chất ô dước có 5 thành phần, gồm: thứ nhất là vôi (vôi sống, vỏ nghêu sò, san hô nghiền vụn…); thứ hai là cát; thứ ba là chất kết dính, dùng mật ong, nhựa dây tơ hồng, mật đường, .v.v.; thứ tư là giấy dó và cuối cùng là than hoạt tính. Mỗi chất trên lại phải chế biến theo những yêu cầu riêng. Ví như vôi phải dùng loại “vôi sống” làm bằng vỏ sò, san hô giã trong cối đá cho đến khi nát thành bột mịn. Không được dùng “vôi chết”, tức là vôi đã nung qua, vì sẽ thiếu độ quyện khi trộn cùng các chất khác.
Bí mật chờ khám phá
Ngoài kỹ thuật pha chế công phu, hợp chất ô dước còn ẩn trong mình lý thuyết về ngũ hành tương sinh, tương khắc.
Theo đó, chất kết dính bao gồm ô dước, tơ hồng, mật ong, … biểu đạt ở dạng Mộc. San hô, vỏ sò tượng trưng cho hệ Thủy, than hoạt tính, giấy dó – hệ Hỏa, cát, sạn – hệ Thổ. Tuy nhiên, chất biểu đạt cho hệ Kim cho đến nay vẫn là điều khiến các nhà nghiên cứu phải tranh cãi.
Khu mộ bằng ô dước ở Cai Lậy, Tiền Giang tồn tại hơn 2 thế kỷ mặc cho thiên tai gió bão khiến các nhà khoa học kinh ngạc về hợp chất này
Có người cho rằng hệ Kim trong hợp chất ô dước gắn liền với một câu chuyện cổ kể về “Phước quang” cho người chết. Trong câu chuyện có đủ Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ và “Phước quang” tượng trưng cho hệ Kim.
Nhưng có người lại nói, đây chỉ là lưu truyền dân gian, chưa có căn cứ nào xác thực và Kim trong ô dước là thành phần đá ong. Năm thành phần này được trộn theo một tỉ lệ đặc biệt và theo quy tắc tương phân, nghĩa là chiều ngược lại của ngũ hành tương sanh: Thổ đến Hỏa, Thủy, Mộc rồi sau cùng mới thêm Kim vào.
Cụ thể như sau, cát, hoặc sỏi sạn nhỏ đem về được sàn lọc sạch rác, tạp chất. Sau đó trộn với than hoạt tính, giã nhỏ cỡ hạt đậu, hạt bắp. Than hoạt tính hay giấy dó đóng vai trò hút ẩm. Tiếp đến, rắc vôi sống trộn đều rồi từ từ đổ chất kết dính (mật đường, nhựa ô dước, tơ hồng) vào. Ô dước khi trộn xong khá dẻo và có vẻ dính, tuy nhiên lại rút nước rất mau. Và khi đã rút nước xong thì trở thành một khối khô đặc, cứng chắc đến nỗi nước cũng khó thấm vào tầng lõi của khối hợp chất.
Ô dước còn trở nên bí ẩn hơn, khi rất nhiều nhà nghiên cứu đã dày công tìm cách tái hiện lại loại hợp chất này nhưng vẫn chưa có ai thực sự thành công.
Người ta đồ rằng, sở dĩ vậy vì hậu thế vẫn chưa tìm ra chất bí ẩn biểu đạt cho hệ Kim. Ngay lập tức hướng nghiên cứu đổ dồn vào lý thuyết trong ô dước có thể có thành phần bột kim loại. Lý thuyết này ngay lập tức bị bác bỏ, do không thể tìm ra thành phần kim loại trong các mẫu ô dước đem về từ những lăng mộ cổ.
Và “chất cuối cùng” có tính chất quyết định đến sự rắn chắc của hợp chất, cũng như công thức và bí quyết hoàn thành “ô dước” vẫn còn nằm trong vòng bí mật.
Đồng thời, cho đến nay, những ý nghĩa sâu xa về sự trùng hợp giữa một loại vật liệu xây dựng độc đáo của ông cha ta với quy luật thuận, nghịch trong ngũ hành vẫn là câu hỏi lớn thách thức giới nghiên cứu, khảo cổ. Vậy nên, gọi ô dước là “hợp chất huyền thoại” quả không ngoa.
Theo MTG
Cảm phục "cô gái một chân" theo đuổi ước mơ mở công ty riêng
Dù mang trọng bệnh, bị cắt một chân nhưng tân sinh viên Trần Thị Phúc Trân đang từng ngày nỗ lực theo đuổi ước mơ trở thành một kế toán giỏi và mở một công ty kế toán tư nhân.
Chúng tôi tìm đến ấp Hòa Quới (xã Hiệp Đức, huyện Cai Lậy, Tiền Giang) vào một ngày cuối năm, hỏi thăm nhà của Trần Thị Phúc Trân thì ai cũng biết và dành nhiều tình cảm đặc biệt cho cô nữ sinh có số phận trắc trở này.
Trao đổi với chúng tôi trong một ngôi nhà nhỏ nằm khuất trong vườn nhãn đã già cỗi, chẳng có mấy vật dụng gì đáng giá, Phúc Trân vui vẻ chia sẻ với tôi về những bi kịch trong cuộc đời mình.
Cô nữ sinh một chân Phúc Trân.
Tuổi thơ cơ cực
Theo đó, gia đình Phúc Trân có 4 thành viên, ít đất đai canh tác và là diện hộ nghèo nhất ấp Hòa Quới. Kinh tế gia đình chỉ trông vào nghề làm thuê, làm mướn của cha và mẹ Phúc Trân. Hiểu được hoàn cảnh khó khăn của gia đình nên Phúc Trân rất chăm chỉ, chịu khó học hành với nhiều năm liền là học sinh giỏi.
Cuối năm 2008, khi đang học lớp 8 thì thấy chân trái thường hay bị đau nhức, gia đình đưa em đến bệnh viện huyện rồi sau đó chuyển lên Bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM để khám chữa. Tại đây, các bác sĩ chẩn đoán chân trái của em bị SARCOM xương chày, cần phải cắt bỏ chân trái, nếu không phải tháo bỏ khớp háng. Lúc đó gia đình sợ cháu Trân buồn, ảnh hưởng đến việc học nên giấu em. Mãi đến ngày em lên bàn mổ, gia đình mới cho em biết...
Chị Trần Thị Hai (SN 1967) - mẹ Trân kể lại giọng ngậm ngùi: "Sợ cháu bị sốc, tôi nói khéo chỉ bị khối u, uống thuốc vài tháng là hết. Nghe vậy cháu mừng rỡ vì sợ chuyện mổ xẻ ảnh hưởng đến việc học. Thấy con vui mà lòng tôi đau thắt".
Ngày lên bàn phẫu thuật, Trân khóc ròng. Trân kể lại với đôi mắt rưng rưng, nghẹn ngào: "Khi biết được sự thật về căn bệnh của mình, em cảm thấy tất cả như sụp đổ, mọi hy vọng, mọi điều tốt đẹp của cuộc sống như muốn rời bỏ em. Đó là một cú sốc quá lớn với em, chưa bao giờ em nghĩ mình sẽ bị tàn phế như thế... Có lúc em đã từng nghĩ quẩn...".
Ngày xuất viện về nhà, em không đủ can đảm để soi gương vì thân hình xác xơ, tiều tụy và mái tóc dài thướt tha đã rụng gần hết. Sau khi bị cắt chân, việc đi đứng của em hết sức khó khăn. Trân phải nghỉ học mất 6 tháng để điều trị bệnh (xạ trị và vô hóa chất) cũng như tập đi. Việc đi đứng của Trân từ đó bắt đầu dựa vào đôi nạng gỗ. Từ đó em luôn mặc cảm với bạn bè về khuyết tật của mình và có ý định nghỉ học.
May mắn thay, thầy Lê Văn Tư, giáo viên Trường THCS Hiệp Đức, nhà cạnh bên, đã sang an ủi, động viên em trở lại học tập. Sợ em mặc cảm với bạn bè, chính thầy đã làm công tác tư tưởng đối với học sinh của trường và thường xuyên đưa rước Trân đi học. "Mấy ngày nằm ở nhà, bạn bè cũng thường xuyên đến thăm, trở vào trường được các bạn vui mừng chào đón, giúp đỡ hết chuyện này đến chuyện khác làm em xúc động vô cùng. Cũng có lúc ngồi một mình bên cửa sổ lớp nhìn ra sân thấy các bạn chạy nhảy một cách vô tư, nước mắt em như chực trào ra. Nhưng, nghĩ đến lời của thầy Tư: Bệnh tật là điều không ai muốn. Nhưng, bây giờ, em phải chiến đấu với bệnh tật. Em nghĩ nếu mình buồn thì cha mẹ sẽ buồn theo mà cha mẹ đã khổ cực quá nhiều rồi. Từ đó, em tự động viên mình phải sống lạc quan, học thật giỏi để không phụ lòng tin của mọi người". Trân tâm sự.
Ngoài ra, chị Hai còn cho biết thêm: "Chính nhờ sự động viên tinh thần của thầy cô và các bạn nên Trân phấn chấn tự tin trở lại trường, tiếp tục việc học. Tuy nhiên, cha cháu bận việc làm thuê, nhà lại không có xe máy làm phương tiện đưa đón nên ban đầu việc đến trường của Trân vất vả lắm. Cũng may nhờ thầy Lê Văn Tư chở em đi nhờ đến trường mỗi ngày. Nhờ đó, Trân mới có tương lai tươi sáng như hôm nay".
Một chân vẫn học đại học
Dẫu nghỉ học khá lâu nhưng khi trở lại trường, Phúc Trân vẫn học tập tốt làm cho nhiều thầy cô, bạn bè hết sức bất ngờ. Em luôn giữ vững danh hiệu học sinh giỏi. Trước giờ sách vở em học đều do người chị bà con học ở lớp trên cho mượn lại, còn bài học nào không hiểu, em mạnh dạn hỏi lại thầy cô.
Ngoài thời gian học trên lớp, em còn giúp đỡ cha mẹ nấu cơm, giặt giũ, làm cỏ vườn... và nhận dạy kèm cho một số em nhỏ trong xóm để khuây khỏa nỗi buồn. Cảm thông trước hoàn cảnh gia đình khó khăn và đức tính chịu khó ham học hỏi của Trân, các thầy cô ở Trường THCS Hiệp Đức đã miễn hoàn toàn học phí cho em và cử thầy cô trực tiếp phụ giúp việc đưa đón Trân đến trường khi gia đình em có việc bận.
Mặc dù khiếm khuyết cơ thể nhưng Trân vẫn đạt được nhiều giải thưởng.
Thầy Nguyễn Văn Tư (Trường THCS Hiệp Đức) nhớ lại: "Nhà trường rất tự hào về em Trân, luôn lấy tấm gương của em để giáo dục học sinh của trường về tinh thần vượt khó, ham học hỏi. Hiện nay, trong khi nhiều học sinh có điều kiện, gia đình khá giả nhưng lại đua đòi bỏ học thì sự nỗ lực của em Phúc Trân thật đáng tự hào".
Với sự nỗ lực của Phúc Trân, Hội Chữ thập đỏ huyện Cai Lậy đã tặng em chiếc chân giả để đến lớp thuận lợi hơn. Đôi nạng gỗ giúp em có chỗ tựa, cái chân nhân tạo giúp em lên xuống cầu thang thuận tiện hơn. Trân hóm hỉnh cho biết: "Các bạn em đến trường bằng 2 chân, còn em đến trường bằng cả 4 chân (2 chân gỗ, 1 cái chân nhân tạo và 1 cái chân còn lại của Trân) nên dù khó khăn thế nào em phải cố gắng hết sức để không phụ lòng cha mẹ, thầy cô đã luôn sát cánh với em thời gian qua".
Từ những năm học cấp 2, Phúc Trân đã có ước mơ trở thành một một giáo viên để dạy cho các em nhỏ của địa phương mình. Tuy nhiên, nhưng năm cấp 3, ước mơ ấy đã được thay đổi bởi Trân nhận ra rằng mình không hợp với nghề sư phạm, bởi việc đi lại khó khăn. "Em nghĩ đến một ước mơ thiết thực hơn, là trở thành một kế toán giỏi và em nghĩ rằng mình hợp hơn với ngành này, em quyết định thi vào khoa Kinh tế - xã hội của Trường đại học Tiền Giang", Phúc Trân bộc bạch.
Năm 2013, em Phúc Trân dự thi và đỗ vào ngành Kế toán của Trường đại học Tiền Giang với số điểm khá cao. Ngày em nhập trường cũng là ngày không những bản thân em mà cha mẹ đều có những nỗi lo chồng chất nỗi lo. Hằng ngày em phải đi bộ hơn cây số, có những lúc giảng đường ở trên tầng cao, em đã phải rất khó khăn để lên được lớp học, có những lúc mệt vì sức khỏe yếu em cũng rất nản. Hằng ngày để đến được lớp học, em phải nhờ cậy vào đôi nạng gỗ, có những lúc leo mấy cầu thang đã khiến em mệt rã rời, thậm chí có những lúc em không muốn đến lớp. Nhưng rồi Phúc Trân đã cố gắng phấn đấu, nỗ lực vượt qua khó khăn: "Những lúc khó khăn nhất, em luôn nghĩ đến cha mẹ và những điều mà cha mẹ dành cho mình thì em lại có động lực để vượt qua số phận".
Ngoài ra, bản thân em Phúc Trân là một người lạc quan và thích tự lập. "Lúc đầu nhập học, em dự định đi dạy kèm để đỡ bớt gánh nặng cho gia đình nhưng lịch học không ổn định nên em tạm gác lại ý định làm thêm. Khi nào, lịch học ổn định thì em sẽ đi dạy kèm liền..." - Phúc Trân chia sẻ.
Cô Lê Thị Vân Trang - Cố vấn lớp ĐH Kế toán 13B cho biết: Phúc Trân là một sinh viên rất lạc quan và chăm học. Dù bị khuyết tật nhưng em hòa đồng và gia nhập với các bạn rất nhanh. Với nghị lực học tập không mệt mỏi của các em cộng với tấm lòng tận tình của giáo viên, sự cảm thông giúp đỡ của các bạn cùng lớp mà Phúc Trân đã làm nên kỳ tích bằng cách viết lại câu chuyện của chính cuộc đời mình.
Khi kể về ước mơ lớn nhất, Phúc Trân nở nụ cười chia sẻ chân thành: "Ước mơ lớn nhất của em bây giờ là sau khi ra trường sẻ tìm được việc làm ổn định. Và sau 10 năm nữa, em dự định mở được một công ty kế toán tư nhân, trong đó đa phần những người làm việc sẽ là những người khuyết tật. Em muốn mọi người nhìn thấy được khả năng của họ. Họ có thể làm được tất cả những gì mà họ mong muốn, đam mê, cũng như bản thân em luôn mong muốn làm những điều thiết thực nhất, niềm đam mê phải bắt đầu từ những suy nghĩ và hành động thiết thực. Và em nghĩ rằng thành công mà em muốn mang lại còn dài ở chặng đường phía trước, vì vậy cần cố gắng nhiều hơn nữa".
Vẫn biết con đường vượt qua hoàn cảnh khó khăn và bệnh tật để đến với ánh sáng tri thức sẽ còn lắm vất vả, nhưng với niềm tin và nghị lực phi thường của cô bé Phúc Trân, tôi tin rằng ước mơ của em sẽ thành hiện thực.
Theo Vĩnh Sơn
Dân Việt
Hơn 8 năm, cô giáo đi xin áo dài cho nữ sinh nghèo Trong suốt 8 năm qua, cô Nguyễn Thị Lâu - Phó Hiệu trưởng Trường THPT Tứ Kiệt (huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) đã âm thầm đi xin áo dài cho các nữ sinh nghèo để các em không phải lo lắng vì không có đồng phục mặc đến lớp... Từ lâu thầy cô bạn bè đã biết và nể phục việc làm...