Bí ẩn cổ vật quý giá trị hơn 3.300 tỷ đồng nhưng ‘vô dụng’
Các chuyên gia ước tính giá trị của cổ vật này hơn 3.300 tỷ đồng nhưng vẫn không biết dùng để làm gì. Đây rốt cục là đồ vật gì?
Chiếc bình ngọc kỳ lạ được tìm thấy trong ngôi mộ của một vị tướng nhà Tây Tấn.
Khai quật được cổ vật đáng giá hàng nghìn tỷ đồng nhưng các chuyên gia, nhà khảo cổ ngày nay vẫn chưa thể xác định được mục đích sử dụng thực sự của nó. Câu chuyện dưới đây là một minh chứng.
Vào năm 1990, khi đang cuốc đất, một người nông dân ở huyện An Hương, thành phố Thường Đức, tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) đã phát hiện ra một hố sụt kỳ lạ. Nhận thấy có thể là nơi chứa di vật văn hóa nên người này đã lập tức báo cáo cho chính quyền địa phương. Sau khi các chuyên gia tới và tiến hành giám định chuyên môn, hóa ra cái hố kỳ lạ này lại là đỉnh của một ngôi mộ cổ.
Các nhà khảo cổ tiến hành khai quật ngôi mộ cổ ở tỉnh Hồ Nam vào năm 1991.
Các chuyên gia cũng phát hiện quy mô của ngôi mộ này không hề nhỏ. Tuy nhiên, mãi đến năm 1991, các nhà khảo cổ mới chính thức tiến hành một cuộc khai quật quy mô lớn với ngôi mộ này.
Nhờ có sự chuẩn bị kỹ lưỡng của các chuyên gia nên việc khai quật ngôi mộ cổ này dường như rất suôn sẻ. Nhiều di vật văn hóa quý giá đã được khai quật, trong đó có 78 món đồ bằng vàng, bạc và ngọc. Theo lẽ thường, đợt khai quật khảo cổ diễn ra rất thành công. Bởi các nhà khảo cổ học không chỉ phát hiện ra chủ nhân của ngôi mộ này chính là Lưu Hoằng (236 – 306), một vị tướng nổi tiếng vào cuối thời nhà Tây Tấn, mà còn thu được một lượng lớn di vật văn hóa quý giá như con dấu bằng vàng, nhiều đồ đồng, đồ sơn mài…
Ấn vàng được tìm thấy trong ngôi mộ cổ 1.700 năm.
Tuy nhiên, trong số rất nhiều di vật văn hóa được tìm thấy trong ngôi mộ cổ khoảng 1.700 năm, các nhà khảo cổ học quan tâm nhất tới một cổ vật đặc biệt. Đó là một món đồ hình trụ được làm bằng ngọc. Lý do thu hút rất đơn giản, bởi vì các chuyên gia vẫn chưa thể tìm ra công dụng của đồ vật này.
Theo các nhà khảo cổ, món đồ trông giống như một chiếc bình ngọc có chiều cao 10,5 cm, đường kính cũng 10,5 cm, được chế tác một cách khéo léo và tinh xảo. Thông thường, hầu hết các di vật văn hóa bằng ngọc từng được khai quật đều “không có tỳ vết” và có độ trong mờ thì được coi là loại ngọc cao cấp nhất.
Tuy nhiên, chiếc bình ngọc này thì ngược lại. Chất liệu của nó được làm từ một khối ngọc bích chất lượng cao, nhưng lại được chế tác không phải loại trong mờ. Mặc dù vậy, theo đánh giá của các chuyên gia, chiếc bình cổ này vẫn là một tác phẩm nghệ thuật hiếm có trên thế giới. Điểm thu hút nhất của nó chính là những hoa văn họa tiết vô cùng độc đáo.
Đặc biệt, phần trên của chiếc bình ngọc được chạm khắc tinh xảo với đường nét tuy phức tạp nhưng không lộn xộn, trong đó có hình vân mây, hình rồng, kỳ lân… Phần dưới được trang trí chia thành ba nhóm với chủ đề cuộc chiến giữa tiên và rồng, hổ và rồng, rồng và gấu. Đáy bình có ba chân hình con gấu. Những hoa văn này phản ánh mong muốn của con người lúc bấy giờ về sự bất tử, trường thọ và phú quý.
Cận cảnh hoa văn độc đáo trên chiếc bình cổ.
Video đang HOT
Việc tìm thấy những cổ vật làm bằng ngọc bích không phải là hiếm trong những khám phá khảo cổ học ngày nay. Nhưng các chuyên gia cho rằng, đánh giá từ kỹ năng chạm khắc trên chiếc bình ngọc này, có thể thấy nó được làm ra nhờ bàn tay của những người thợ bậc thầy nổi tiếng cách đây hàng nghìn năm.
Kỹ thuật chạm khắc của nó thậm chí đã vượt xa so với thời nhà Tấn. Do đó, các chuyên gia suy luận rằng chiếc bình ngọc này có thể là một món “đồ cổ” yêu thích của Lưu Hoằng khi còn sống.
Điều này cũng làm dấy lên một cuộc tranh luận giữa các chuyên gia về mục đích sử dụng thực sự của chiếc bình ngọc có niên đại khoảng 1.700 năm. Trên thực tế, về hình dáng, chiếc bình này khá giống với hai bình hâm nóng rượu thời nhà Hán được khai quật ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) vào năm 1962. Mục đích sử dụng của hai chiếc bình này là để đựng và hâm nóng rượu. Hai chiếc bình rượu cổ thời nhà Hán đều được làm bằng đồng.
Chiếc bình rượu thời nhà Hán được tìm thấy vào năm 1962 ở Sơn Đông (Trung Quốc).
Những đồ vật bằng ngọc như chiếc bình ngọc có hoa văn thần thú như trên lại chỉ xuất hiện vào thời nhà Hán. Về sau, vào thời Tam Quốc, những chiếc bình sứ dần thay thế cho bình đồng và bình ngọc. Tuy nhiên, bình ở giai đoạn này chủ yếu là vật dụng dùng để uống rượu.
Đây chính là điểm gây tranh cãi. Bởi người xưa thường rót rượu vào một vật dụng, đồ vật cụ thể như cốc, chén trước khi uống. Trong khi đó, chiều cao tổng thể của chiếc bình này là 10,5 cm, quá nhỏ để làm bình đựng rượu, nhưng cũng quá lớn để dùng làm chén uống rượu. Vì vật, các chuyên gia đều không đồng tình với quan điểm cho rằng cổ vật này là bình đựng rượu.
Nếu không phải là bình rượu, vậy món đồ tinh xảo này được dùng để làm gì?
Cổ vật hơn 3.300 tỷ đồng được dùng để làm gì?
Chiếc bình ngọc có giá trị ít nhất hơn 3.300 tỷ đồng đang được trưng bày trong Bảo tàng tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc).
Có ý kiến cho rằng một số chuyên gia đã tiến hành kiểm tra chuyên nghiệp hơn với bình ngọc có hoa văn thần thú vào thời điểm sau khi được khai quật. Cuối cùng, họ tìm thấy có cặn mực từ hàng nghìn năm trước ở bên trong cạnh của chiếc bình cổ. Do đó, các chuyên gia này đã phỏng đoán đây có thể là vật dụng dùng để rửa bút lông ngày xưa.
Mặc dù lập luận này có vẻ hợp lý nhưng vẫn gây ra nhiều tranh cãi, bởi nguồn gốc của thư pháp. Trên thực tế, giấy là phát minh xuất hiện vào thời Tây Hán. Trước thời kỳ này, người xưa thường sử dụng các thẻ tre và gỗ để ghi chép văn bản. Đến thời nhà Tây Tấn, dù giấy được sử dụng nhiều, nhưng đây là vật dụng dùng để viết, ghi chép, chứ chưa phổ biến dùng để luyện thư pháp hàng ngày.
Vì vậy, theo các chuyên gia, có rất ít khả năng người ở triều đại này sử dụng một chiếc bình ngọc để làm dụng cụ rửa bút lông.
Đến nay, những tranh luận về công dụng thực sự của chiếc bình ngọc có hoa văn thần thú này vẫn chưa ngã ngũ.
Mặc dù vậy, chiếc bình ngọc quý hiếm này đã được công nhận là bảo vật quốc gia. Theo các chuyên gia, dù không thể so sánh với đồ đồng cổ, nhưng chiếc bình có niên đại cách đây khoảng 1.700 năm có giá trị ước tính ít nhất hơn 1 tỷ NDT (tương đương với hơn 3.300 tỷ đồng).
Vào ngày 19/8/2013, chiếc bình ngọc có hoa văn thần thú được cho vào danh sách những cổ vật bị cấm trưng bày ở nước ngoài.
Bảo vật 'xuyên không' thách thức các nhà khoa học: Kinh ngạc khi máy bay có từ hàng nghìn năm trước
Một số cổ vật vô cùng hiện đại, khiến người ta khó có thể tin rằng chúng được làm từ cách đây hàng ngàn năm.
Thậm chí, nhiều người còn tin vào giả thuyết 'xuyên không', ám chỉ rằng những bảo vật này là sản phẩm của một nền công nghệ hiện đại, nhưng đi ngược thời gian để trở về quá khứ.
Theo các chuyên gia, các cổ vật, di vật văn hóa được tìm thấy có thể cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quý giá về lịch sử. Trong những năm qua, có nhiều di vật văn văn hóa đã được khai quật. Tuy nhiên, có một số bảo vật khiến các chuyên gia vô cùng ngạc nhiên khi có vẻ bề ngoài không khác gì các sản phẩm công nghệ thời hiện đại.
Ban đầu, các nhà nghiên cứu còn nghi ngờ chúng là "đồ giả". Tuy nhiên, sau khi kiểm tra và nghiên cứu kỹ lưỡng, hóa ra các cổ vật này là đồ thật cách đây hàng nghìn năm và không phải là "xuyên không" từ thời hiện đại.
Máy bay
Một đồ vật cách đây hơn 4.000 năm có hình dạng giống hệt máy bay thời hiện đại.
Đây là một cổ vật có hình máy bay được tìm thấy trong một ngôi mộ ở Ai Cập vào năm 1989. Mô hình máy ba này được làm bằng gỗ và nặng khoảng 31 gram. Điều kỳ lạ là 14 mô hình máy bay tương tự cũng được tìm thấy ở một số nơi khác tại Nam Mỹ. Thoạt nhìn, di vật văn hóa này không giống như đồ vật được phát hiện trong một ngôi mộ cổ có niên đại hơn 4.000 năm.
Nhiều người sẽ cho rằng đây là đồ vật xuyên không từ thế giới hiện đại. Hơn nữa, chiếc máy bay đầu tiên được con người phát minh vào năm 1903. Thế nhưng rõ ràng cổ vật trên giống một chiếc máy bay hiện đại đến mức nhiều người phải ngạc nhiên cho rằng đây là sản phẩm của người ngoài hành tinh để lại trên Trái Đất. Trên thực tế, qua kiểm tra và nghiên cứu, các chuyên gia kết luận rằng, đây thực sự là bảo vật được chế tác cách đây hơn 4.000 năm.
Cốc pha lê Chiến quốc
Chiếc cốc pha lê hơn 2.000 năm có vẻ ngoài rất giống với cốc thủy tinh ngày nay.
Món đồ này trông giống như một chiếc cốc bình thường phải không ạ? Nhưng nó lại là chiếc cốc pha lê có từ thời Chiến Quốc cách đây hơn 2.000 năm, được phát hiện vào năm 1990 ở Hàng Châu, Trung Quốc. Tuy có không ít di vật bằng pha lê được khai quật trên thế giới, nhưng chúng chỉ là những đồ vật nhỏ như mặt dây chuyền. Đây là lần đầu tiên có một đồ thủ công mỹ nghệ lớn như thế này.
Chiếc cốc cao 15,4cm, đường kính miệng 7,8cm và đáy 5,4cm, được làm từ loại pha lê có độ tinh khiết cao. Điều khiến các nhà khảo cổ học thắc mắc là làm thế nào người cổ đại có thể đục rỗng lòng pha lê cứng như vậy. Đặc biệt là cách mà họ mài và đánh bóng phần đáy rất nhỏ của cốc trong điều kiện không có máy móc kỹ thuật vào thời đó.
Cổ vật này quá giống thời hiện đại nên ban đầu một số người cho rằng nó là do tên trộm mộ ném vào trong mộ cổ. Tuy nhiên, các nhà khảo cổ học không tìm thấy dấu vết cho thấy khu mộ từng bị trộm. Sau nhiều lần kiểm tra, họ xác định sản phẩm tưởng chừng như "đi lạc chỗ" này chắc chắn có từ cách đây hơn 2.000 năm, nhưng người cổ đại đã tạo ra nó như thế nào thì chưa ai có thể giải thích được. Hiện chiếc cốc đang được trưng bày tại Bảo tàng Hàng Châu để mọi người cùng chiêm ngưỡng.
Thước cặp bằng đồng
Chiếc thước cặp bằng đồng được tìm thấy trong lăng mộ của Vương Mãng. Thiết kế của bảo vật này khiến các chuyên gia bối rối, thậm chí nghi ngờ là đồ giả.
Đây là một thước cặp bằng đồng, một công cụ đo lường vào thời Vương Mãng (45 TCN - 23), một quyền thần của nhà Hán, người về sau trở thành hoàng đế duy nhất của nhà Tân, làm gián đoạn nhà Hán. Theo các chuyên gia, chiếc thước cặp này được sản xuất vào năm 9.
Cổ vật hơn 2.000 năm tuổi được làm bằng đồng và có hình dạng hơi giống một khẩu súng lục. Đặc biệt, nhìn tổng thế, thước cặp được tìm thấy trong ngôi mộ cổ có thiết kế rất giống với thước cặp Vernier, công cụ đo lường mà chúng ta sử dụng trong thời hiện đại. Ngay cả thang đo cũng được chế tác rất chính xác.
Vì quý hiếm, chiếc thước cặp dài 13,3 cm đã được công nhận là bảo vật quốc gia.
Nhiều người đặt câu hỏi rằng, nhà Hán liệu có một phương pháp đo lường, tính toán với quy mô tiên tiến như vậy? Hoặc chiếc thước cặp hơn 2.000 năm tuổi trên có phải là một sản phẩm của thế giới hiện đại? Bởi thước cặp là một công cụ đo lường hiện đại và được cho là xuất hiện lần đầu vào năm 1631. Do đó, bảo vật trên là di vật văn hóa mà ngay cả các nhà khảo cổ, nhà nghiên cứu cũng nghi ngờ là "đồ giả".
Thậm chí Vương Mãng còn bị nhiều người nghi ngờ cho rằng ông là vị hoàng đế "du hành thời gian". Bởi vì khi còn sống, Vương Mãng ôm tham vọng xây dựng một thế giới hoàn mỹ khi thực thi nhiều biện pháp quá tân tiến và hiện đại.
Chuông lớn của vua Dhammazedi
Chuông lớn của vua Dhammazedi. (Getty)
Vào cuối thế kỷ 15, Myanmar là một quốc gia dưới sự trị vì của Vua Dhammazedi, một cựu tu sĩ Phật giáo. Đất nước này đã đạt đến đỉnh cao về sự cổ kính trong Thời kỳ Hoàng kim với đầy đủ các báu vật được đúc vào thế kỷ 15.
Theo truyền thuyết, chiếc chuông này được đặt bên cạnh ngôi chùa dát vàng Shwedagon, một địa điểm Phật giáo linh thiêng nhất ở Myanmar. Nó được cho là chiếc chuông lớn nhất từng được tạo ra, với kích thước khoảng 6 x 4m và được đúc từ 294 tấn hỗn hợp kim loại gồm vàng bạc, đồng và thiếc. Trên đó khắc những dòng chữ bằng một thứ ngôn ngữ khó hiểu, chưa thể giải mã.
Thế kỷ 16 chứng kiến sự suy tàn của vương quốc Dhammazedi, các đội quân của châu Âu đã tiếp cận vùng đất này, trong đó có cả lãnh chúa người Bồ Đào Nha Filipe de Brito e Nicole đã mở rộng quyền lực của mình trên khắp Myanmar.
Năm 1608, ông đã cho dỡ bỏ chiếc chuông khỏi Chùa Shwedagon, định nung chảy nó để đúc một khẩu súng thần công. Sau khi lăn nó xuống một ngọn đồi, họ đặt nó lên một chiếc bè. Không ngờ, chiếc chuông nặng hơn nhiều so với những gì người ta có thể tưởng tượng, nên giữa đường toàn bộ bè và chiếc chuông đã chìm và không bao giờ được nhìn thấy kể từ đó.
Nhiều nỗ lực tìm lại chiếc chuông đã không thành công. Có ít nhất 3 vụ đắm tàu khác trong khu vực đó. Chiếc chuông này là một phần quan trọng trong lịch sử và tôn giáo của Myanmar. Sau khi nó biến mất, nhiều nhà lãnh đạo dân sự và chính phủ tin rằng nếu có thể tìm thấy và phục hồi, nó sẽ mở ra một thời kỳ thịnh vượng mới cho Myanmar.
Kính áp tròng từ 4.600 năm trước
Trong bảo tàng Cairo và bảo tàng Luxor ở Ai Cập, có những bức tranh và tượng đại diện cho những người dường như đang đeo kính áp tròng. Đại diện nổi bật nhất là bức tượng gỗ của pharaoh Chora. Cái kính được gắn lên đôi mắt của bức tượng ấy giống với cấu trúc của võng mạc một cách đáng kinh ngạc. Chúng thay đổi màu sắc, từ xanh lam sang xám khói phụ thuộc vào vị trí nhìn của chúng ta.
Điều kỳ lạ là kính áp tròng không được phát minh cho đến khoảng thế kỷ 13, trong khi các cổ vật này lại thuộc thời kỳ cổ đại của Ai Cập có từ khoảng cách đây hơn 4.600 năm.
Đây là một điều bất thường, gây nhiều tò mò cho mọi người và cũng là một trong những bí ẩn lâu đời, đầy thú vị về nền văn minh Ai Cập cổ đại.
Địa chấn kế ra đời cách nay 2.000 năm? Cách nay gần 2 ngàn năm, ở Trung Quốc có một người từng chế tạo thiết bị phát hiện hướng xảy ra rung chấn, ngay cả cách xa hàng trăm km. Phác họa máy đo địa chấn của Trương Hành (trái) và thiết bị được phục chế. Để tránh những thiệt hại do động đất gây ra, từ lâu các nhà khoa học...