Bí ẩn các mảng kiến tạo dịch chuyển hình thành các lục địa trên Trái đất
Một nghiên cứu do các nhà nghiên cứu địa chất Harvard dẫn đầu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy lớp vỏ di chuyển nhanh chóng trên bề mặt Trái đất trong quá khứ sâu thẳm, ít nhất là 3,2 tỷ năm trước.
Một câu hỏi dai dẳng tạo ra nhiều cuộc tranh luận chưa có hồi kết đó là quãng thời gian các mảng kiến tạo của Trái đất bắt đầu dịch chuyển và kéo theo một quá trình giúp hành tinh này tiến hóa và định hình các lục địa của nó thành những tồn tại ngày nay. Một số nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết cho rằng đã xảy ra khoảng 4 tỷ năm trước, trong khi những người khác nghĩ rằng chỉ gần 1 tỷ năm.
Cho đến gần đây, một nhóm nghiên cứu do các nhà nghiên cứu của Đại học Harvard dẫn đầu đã tìm kiếm manh mối trong những tảng đá cổ (hơn 3 tỷ năm) từ Úc và Nam Phi, và thấy rằng những tảng đá này đã di chuyển ít nhất 3,2 tỷ năm trước trên Trái đất sơ khai.
Trong một phần lấy từ Pilbra Craton ở Tây Úc, một trong những mảnh lâu đời nhất của lớp vỏ Trái đất, các nhà khoa học đã tìm thấy một vết trôi theo khoảng 2,5 cm mỗi năm, và có niên đại khoảng 3,2 tỷ năm trước. Các nhà nghiên cứu tin rằng sự thay đổi này là bằng chứng sớm nhất cho thấy chuyển động của lớp vỏ giống như hiện đại đã xảy ra giữa khoảng 2 – 4 tỷ năm trước.
Về cơ bản, đây là một trong những bằng chứng địa chất để mở rộng kỷ lục về kiến tạo mảng xa hơn trong lịch sử Trái đất, Alec Brenner, một trong những tác giả chính của nghiên cứu là thành viên của Phòng thí nghiệm Paleomagnetics, Đại học Harvard, cho biết.
Kiến tạo mảng là chìa khóa cho sự tiến hóa của sự sống và sự phát triển của hành tinh. Ngày nay, lớp vỏ ngoài Trái đất bao gồm khoảng 15 khối vỏ cứng liên quan đến các lục địa và đại dương. Sự chuyển động của các mảng này định hình vị trí của các lục địa. Nó đã giúp hình thành những cái mới và nó tạo ra những địa hình độc đáo như những dãy núi. Nó cũng dẫn đến các phản ứng hóa học làm ổn định nhiệt độ bề mặt Trái đất trong hàng tỷ năm. Một khí hậu ổn định là rất quan trọng đối với sự tiến hóa của cuộc sống.
“Chúng tôi đang cố gắng tìm hiểu các nguyên lý địa vật lý điều khiển Trái đất”, ông Roger Fu, một trong những tác giả chính của nghiên cứu và là trợ lý giáo sư Khoa học trái đất và Hành tinh thuộc Khoa Khoa học và Nghệ thuật cho biết.
Video đang HOT
Các thành viên của dự án đã đi đến Pilbara Craton ở Tây Úc được cho là một mảng vỏ nguyên thủy, dày và rất ổn định. Chúng được tìm thấy ở giữa các mảng kiến tạo và là trái tim cổ xưa của Trái đất. Điều này làm cho Pilbara Craton trở thành nơi để nghiên cứu về Trái đất sơ khai. Pilbara Craton trải dài khoảng gần 500km, xấp xỉ diện tích giống như trạng thái của Pennsylvania. Đá ở đây hình thành sớm nhất là 3,5 tỷ năm trước.
Vào năm 2017, các nhà nghiên cứu Fu và Brenner đã lấy mẫu từ một phần được gọi là Honeyeater Basalt. Họ khoan vào các tảng đá ở đó và thu thập các mẫu lõi rộng khoảng một 2,54cm sau đó mang các mẫu trở lại phòng thí nghiệm ở Cambridge, và xác định nó có niên đại khoảng 3,2 tỷ năm trước.
Sau đó, nhóm nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu của họ từ các nhà nghiên cứu khác và phát hiện hiện ra các tảng đá đã dịch chuyển chuyển từ điểm này sang điểm khác khoảng 2,5 cm mỗi năm.
Công việc của Fu và Brenner khác với hầu hết các nghiên cứu vì các nhà khoa học tập trung vào việc đo vị trí của các tảng đá theo thời gian trong khi công việc khác có xu hướng tập trung vào các cấu trúc hóa học trong các loại đá có liên quan đến chuyển động kiến tạo.
Hai nhà nghiên cứu Fu và Brenner hiện đang có kế hoạch tiếp tục phân tích dữ liệu từ Pilbara Craton và các mẫu khác từ khắp nơi trên thế giới trong các thí nghiệm trong tương lai.
Trang Phạm
Phát hiện "tổ tiên đầu tiên" của nhiều loài động vật hiện đại
Các nhà khoa học vừa có những phát hiện đáng chú ý được cho là nguồn gốc của hầu hết các dạng động vật quen thuộc sống trên Trái đất nay.
Hình ảnh mô tả sinh vật được cho là tổ tiên của các loài động vật ngày nay.
Ikaria wariootia là tên của sinh vật kì lạ mới được xác định. Nó như một đốm màu chậm chạp có kích thước bằng hạt gạo. Các nhà khoa học nghĩ rằng nó có thể là ví dụ cổ xưa nhất từng được phát hiện về loài động vật có cơ thể đối xứng hai bên (bên trái và bên phải) và mặt trước mặt bên, mặt sau, thường có miệng và hậu môn. Sinh vật kỳ lạ được xác định ở vùng hẻo lánh của nước Úc, giống như giun.
"Đây là những gì các nhà sinh học tiến hóa dự đoán", nhà địa chất Mary Droser từ UC Riverside nói.
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã tìm hiểu rất nhiều về các sinh vật đa bào tạo nên cái gọi là Ediacaran biota - một nhóm bí ẩn của các dạng sống cổ xưa tồn tại trước vụ nổ Cambrian.
Một trong những sinh vật được gọi là Dickinsonia, đã thu hút rất nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu, được xác định một vài năm trước đây là động vật được biết đến sớm nhất trên thế giới trong hồ sơ hóa thạch.
Tuy nhiên, không phải mọi thứ xuất hiện trong thời kỳ này đều liên quan trực tiếp đến con người, cũng như tất cả các loài động vật khác có sinh lý song phương.
"Dickinsonia và những thứ lớn khác có lẽ là ngõ cụt tiến hóa", Droser giải thích.
Vậy chúng ta và những sinh vật song phương khác bắt nguồn từ đâu? Trong nhiều năm, một tập hợp các dấu vết hóa thạch được in dấu trong các mỏ đá ở Nilpena, Nam Úc, đã khiến các nhà nghiên cứu tò mò.
Những dấu vết hóa thạch này được gọi là Helminthoidichnites, có niên đại từ Thời kỳ Ediacaran (khoảng 551 đến 560 triệu năm trước) và được suy đoán là di sản của một dạng sống song phương cổ đại. Nhờ nghiên cứu mới, được thực hiện bằng cách quét laser các mỏ đá, suy đoán đó dường như được xác nhận.
"Chúng tôi nghĩ rằng những sinh vật này đã tồn tại trong khoảng thời gian này, nhưng luôn hiểu rằng chúng sẽ rất khó để xác định. Một khi chúng tôi đã quét 3D, chúng tôi biết rằng chúng tôi đã thực hiện một khám phá quan trọng", nhà nghiên cứu cổ sinh học Scott Evans, hiện thuộc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia của Viện Smithsonian nói.
Các bản quét cho thấy nó được tạo ra bởi hơn một trăm loài động vật cổ đại, có chiều dài từ 2-7 mm và rộng khoảng 1-2,5 mm.
Trong khi đó, theo nhóm nghiên cứu, hóa thạch dấu vết của Ikaria wariootia khác biết hơn so với các hồ sơ sinh học Ediacaran khác trong khu vực Ediacara, cho thấy sinh vật đơn giản, giống như giun với thân hình trụ và đầu và đuôi khác biệt, có trước các loài động vật khác trong khu vực.
"Chúng tôi đề xuất rằng Ikaria là sinh vật đầu tiên tạo ra Helminthoidichnites và có khả năng là sinh vật song phương lâu đời nhất. Ít nhất là được trình bày trong hồ sơ hóa thạch của Nam Úc. Hình thái học của Ikaria ngụ ý việc xây dựng cơ thể có khả năng hỗ trợ trong tổ chức cơ bắp cần thiết cho nhu động (co thắt hệ thống tiêu hóa). Sự dịch chuyển trầm tích cho thấy rằng Ikaria có thể có xương, miệng, hậu môn và tiêu hoá qua ruột", các nhà nghiên cứu cho biết thêm.
Nếu những phát hiện tiếp theo có thể đưa ra bằng chứng về những con giun cổ đại này, thì việc phát hiện ra sinh vật cổ xưa giống như loài giun mới có thể là một cột mốc quan trọng trong sự hiểu biết của chúng ta về tổ tiên động vật trên Trái đất, kể cả con người.
Trang Phạm
Phân điểm tiết lộ một bí mật của tượng Nhân sư ở Ai Cập Tượng Nhân sư nằm ở vị trí đặc biệt so với mặt trời vào một khoảnh khắc thiên văn đặc biệt trong tiết xuân phân. Dường như người Ai Cập cổ đại đã cố tình đặt tượng Nhân sư ở vị trí này. Mặt trời lặn trên vai tượng Nhân sư vào thời điểm xuân phân năm nay. Trong khoảnh khắc này xảy...