Bí ẩn bức tượng “đứng lên ngồi xuống” ở Hải Phòng
Không giống như các pho tượng khác, bức tượng thờ Đức Linh Lang Đại vương trong tư thế ngồi trên ngai, tay cầm văn tự có thể chuyển động, đứng lên một cách nhẹ nhàng, khoan thai, rồi lại từ từ ngồi xuống.
Bức tượng Đức Linh Lang Đại vương có thể ngồi xuống (trái) và đứng lên (phải).
Đàn voi được tạc từ… 7 hạt gạo nếp
Làng Bảo Hà (xã Đồng Minh, Vĩnh Bảo) là một địa danh nức tiếng ở thành phố Cảng Hải Phòng về nghề truyền thống như tạc tượng, múa rối. Tương truyền, cụ Nguyễn Công Huệ là người có công sáng lập, truyền dạy nghề tạc tượng cho dân làng Đồng Minh.
Theo đó, những năm giặc Minh đô hộ nước ta, cụ Huệ bị bắt đi phục dịch ở Quan Xưởng, Trung Quốc. Trong thời gian đó, cụ đã chú tâm học nghề chạm khắc, sơn mài và châm cứu. Đến đời Lê Nhân Tông (1443 – 1459), cụ Huệ trở về quê và dạy nghề tạc tượng cho dân làng. Mọi người suy tôn cụ là Tổ nghề tạc tượng và được phối thờ tại miếu Bảo Hà.
Cho đến giờ, người dân Đồng Minh vẫn lưu truyền giai thoại “ 7 hạt gạo nếp tạc thành đàn voi” của người thợ tạc tượng Tô Phú Vượng. Ông là một trong những học trò nổi tiếng tài hoa của cụ Huệ. Vua Lê Cảnh Hưng đã vời ông Vượng vào cung tạc ngai vàng.
Sau khi tạc xong ngai vàng, ông sung sướng đã tạo ra một kiệt tác nên ngồi thử. Bị thái giám phát hiện và tâu với nhà vua, ông Vượng bị khép tội “khi quân phạm thượng”, nhốt vào ngục tối chờ ngày xử trảm. Sống trong ngục mấy hôm, ông Vượng cảm thấy “ngứa nghề”. Thấy những cọng rơm nếp còn sót lại một vài hạt thóc, ông liền lấy tay bóc, chuốt 7 hạt gạo nếp thành 7 con voi với các tư thế khác nhau.
Chuyện về đàn voi tí hon truyền đến khắp nơi, nhà vua biết chuyện, cảm phục cái tài của người thợ tạc tượng tài hoa, đã quyết định tha bổng, phong ông Tô Phú Vượng tước “Kỳ tài hầu” và cho về quê mở mang, lưu truyền nghề nghiệp.
Bức tượng đứng lên, ngồi xuống
Cùng với đó, múa rối là môn nghệ thuật độc đáo được người dân nơi đây bảo tồn và phát huy. Tương truyền, nhiều những bức tượng đẹp trong các chùa như chùa Mía, chùa Thầy là do những người thợ tài ba làng Bảo Hà sáng tạo ra.
Theo thần phả, Linh Lang là con vua Lý Thánh Tông sinh vào tháng Chạp, năm Giáp Thìn (1064), được đặt tên là Hoằng Chân, mẹ là cung phi thứ 9. Linh Lang được sinh ra tại làng ở Trị Chợ, Thủ Lệ (quận Ba Đình ngày nay).Khi giặc Tống xâm lược nước ta, hoàng tử đã cầm quân đánh giặc. Trong một đợt hành quân, ngài đã tới trang Linh Động (làng Bảo Hà ngày nay) dựng đồn binh, luyện tập binh sĩ, tuyển mộ quân. Khi ngài mất, dân làng xây miếu thờ ngay trên nền đồn binh xưa.
Hiện nay, tại miếu Bảo Hà có một pho tượng kỳ lạ, có thể ngồi xuống, đứng lên như người thật. Không giống như các pho tượng tại nhiều đền đài, miếu mạo, bức tượng thờ Đức Linh Lang Đại vương trong tư thế ngồi trên ngai, tay cầm văn tự có thể chuyển động, đứng lên một cách nhẹ nhàng, khoan thai, rồi lại từ từ ngồi xuống.
Video đang HOT
Chính vì vậy, đây được xem là bức tượng độc đáo, hiếm gặp trong số những bức tượng hiện có ở Việt Nam.
Cụ Nguyễn Văn Nghĩa – Trưởng ban Quản lý di tích miếu Bảo Hà nói: “Bức tượng gần 700 tuổi này là sự sáng tạo “độc nhất vô nhị” của tổ tiên, là sự kết hợp tài tình giữa nghệ thuật tạc tượng và nghệ thuật múa rối. Những nghệ nhân xưa đã sử dụng cách chuyển động trong múa rối để “thổi hồn” vào bức tượng tạo nên sự kỳ lạ, độc đáo. Người dân ở vùng này coi đây là một báu vật, biểu tượng của một ngôi làng truyền thống”.
Bí mật về sự chuyển động của bức tượng Đức Linh Lang Đại vương nằm ở cánh cửa ngay điện thờ bên phải, khi mở dần cánh cửa thì bức tượng dần đứng lên nhưng khi khép lại thì bức tượng lại trở về tư thế ngồi ban đầu. Sự chuyển động của bức tượng đã khiến cho những người đến đây trầm trồ khen ngợi về sự tài hoa, sáng tạo của người thợ làng Bảo Hà.
Năm 1991, miếu Bảo Hà được công nhận là Di tích Lịch sử cấp quốc gia, là nơi hội tụ tinh hoa văn hóa làng nghề. Ngôi miếu do chính bàn tay của những người thợ tài hoa thế kỷ XIII chạm trổ có hoa văn tinh xảo, đẽo tạc những bức tượng đẹp lưu giữ cho tới muôn đời sau đã trở thành một địa điểm tham quan thú vị trong tuyến du lịch du khảo đồng quê của Hải Phòng.
Theo xahoi
Đi tìm sự thật báu vật hóa thạch 3 triệu USD ở Thanh Hóa Kỳ 1
Khoảng hai năm trở lại đây, thông tin về một cây cảnh đẹp kỳ lạ ở Thanh Hóa bị hóa thạch từ hàng triệu năm trước, biến thành một cây đá khiến dư luận xôn xao.
Cây hóa đá Triệu Đô đang được trưng bày tại nhà ông Ngọc
Thoạt nhìn, nếu còn tin chuyện cổ tích, thì cây này vừa bị một bà tiên hay thầy phù thủy nào đó chạm đũa thần vào, đột nhiên hóa đá. Nhiều người dân địa phương hiếu kì đến xem, rồi cả nước đều biết đến nhờ phương tiện thông tin đại chúng.
Theo lời ông Hoàng Văn Ngọc, chủ nhân của cây cảnh này, nó từng được trả giá hàng triệu đô la Mỹ, vì vậy chúng tôi tạm gọi tắt nó là cây hóa đá Triệu Đô.
Kỳ 1: Chuyện ly kỳ xung quanh cây hóa đá Triệu Đô
Cuối năm 2011, trên đường trở về nhân chuyến đi công tác tại các huyện miền tây Thanh Hóa, chúng tôi ghé thăm thôn Tráng (xã Lâm Xa, huyện Bá Thước, Thanh Hóa), để được tận mắt thấy tay sờ vào cây cảnh Triệu Đô đang xôn xao dư luận.
Chủ nhân của Triệu Đô, một người đàn ông nhỏ nhắn tên là Hoàng Văn Ngọc (sinh năm 1954), ăn mặc khá giản dị, dè dặt đón tiếp chúng tôi trong căn nhà thấp, nhỏ hẹp, bên một bộ bàn ghế cũ kỹ và chiếc tủ chè lâu năm. Còn Triệu Đô thì "đứng" vững chãi trên một bệ sành đặt ngay cạnh bàn nước.
Xem xét giấy tờ tùy thân của khách một cách cẩn thận, ông Ngọc "alô" cho cô con gái lớn đang ở thị trấn mau chóng trở về giúp ông tiếp khách. Ông Ngọc vốn là người dưới xuôi, hơn hai mươi năm bỏ quê lên vùng cao làm công nhân ngành lâm nghiệp, lấy vợ sinh con đẻ cái ở xứ này. Điều đó khiến ông bỗng thấy gắn bó mật thiết với cây rừng, hoa lá và đá núi.
Từ năm 1995, ông bắt đầu có thú chơi nhàn nhã là cóp nhặt sưu tầm những loại kỳ hoa dị thạch ở miền Tây xứ Thanh về xếp lổng chổng tại khu vườn nhà. Rồi thì chơi cây cảnh, ghép non bộ. Lại từng làm thầy cúng xách đồ nghề đi khắp vùng, nên ông được nghe khá nhiều câu chuyện huyền bí của người Mường, Thái... địa phương
Một hôm, vào năm 1998 hay 2000 gì đó mà ông Ngọc không nhớ rõ, bỗng có một người đàn ông dân tộc Thái ở huyện Quan Hóa tới rủ ông đi xem pho tượng kỳ lạ tại vùng này. Cứ theo như lời người khách sơn tràng nọ kể, thì pho tượng này bằng đá, to cỡ cái phích, nằm trong hang đá chìm dưới nước, ban ngày thì tượng chìm xuống sông không dấu vết, nhưng ban đêm thì lại nổi lên bờ. Ông Ngọc cao hứng đi xem.
Một phần của Triệu Đô đang được gửi ở Hà Nội để nghiên cứu
Chầu chực nhiều ngày trước vị trí cửa hang mà không thấy tượng, ông Ngọc quyết định tự lần mò vào hang xem thực hư. Không thấy tượng đá, nhưng ông Ngọc tìm thấy cây đá kỳ lạ nói trên.
Cô con gái lớn của ông Ngọc là Hoàng Thị Nhung (SN 1985) cũng góp chuyện: "Hồi đó em đang học lớp 10 hay 11 gì đó, cùng bố và hai em trai đem đồ nghề đi theo người khách nọ đến hang núi. Đường đất thời đó chưa rải nhựa nên đi lại gian khổ lắm. Mọi người cùng đi bằng xe máy "sừng nghé" (xe Honda Cub 50 cũ), đèo theo lỉnh kỉnh cưa đá, đục đá, chạm, đe, búa...".
Đến nơi thì cùng qua sông bằng bè mảng ghép từ những cây luồng. Cửa hang hẹp, lại mấp mé mép nước nên ai cũng ướt như chuột lột, may là mùa khô nên nó mới lộ ra, chứ mùa mưa thì nó ngập chìm trong nước. Hang không rộng lắm nhưng cũng đủ chỗ xoay xở, bên trong lại có ánh sáng vì có lỗ hổng lớn trên trần hang.
Lá cây Triệu Đô
Cứ buổi sáng thì cả nhóm lên xe, trưa ăn cơm nắm, rồi chiều tối lại về nhà. Mọi người hì hục cưa đục cả tuần trời mới xong, vì khối đá rất cứng và đồ sộ. Chẳng có ai để ý đến họ vì vùng này trước kia vốn hoang vu, ít người sinh sống. Hơn nữa, quanh các khu hang động này cũng có nhiều chuyện bí ẩn, nên người dân ít qua lại.
Vẫn theo lời cô gái trẻ có mấy năm đi học bên Trung Quốc này thì: "Khi cưa đục xong thì cái cây bị đổ, vỡ thành mấy mảnh. Mảnh tương đối nguyên vẹn là một mảng cành bám bên trái, thấy rõ như một cái cây thật với đầy đủ cành, lá, quả.
Còn mảng đá lớn hơn thì không đẹp bằng, nhưng ghép lại cũng là một chiếc cây tương đối hoàn thiện. Nếu không bị đổ vỡ, còn là khóm cây nguyên sơ như trong hang núi thì nó đẹp tuyệt vời, không bút nào tả được. Bố em cầu khấn thần rừng thần núi rồi xin đưa cây về nhà".
Ông Hoàng Văn Ngọc, chủ nhân của Triệu Đô
Chằng buộc tất cả vào những cành, rễ, lá vỡ... vào những chiếc bao tải lớn, ông Ngọc đem cây đá về nhà. Lựa nguyên nhánh cây đẹp cho vào một chậu đá, rồi úp lên một chiếc lồng kính để trong nhà. Những nhánh gẫy vỡ còn lại thì ông kỳ cạch ghép thành một khóm cây to như hòn non bộ, rồi đặt các chiếc lá vỡ bên dưới để trang trí. Riêng khối rễ cây lòng thòng như các cây gậy đá thì ông dựng trong góc nhà dưới.
Theo lời ông Hoàng Văn Ngọc, cây đá cảnh khiến nhiều người dân hiếu kỳ trong vùng kéo đến xem nhộn nhịp. Ai cũng tấm tắc khen đẹp và kỳ lạ. Ban đầu ông Ngọc hào hứng lắm, suốt ngày tiếp khách khoe cây. Nhưng rồi khách đến đông quá, sợ có vị nào tắt mắt, ông Ngọc đành đem giấu đi cái nhánh cây đẹp nhất và nhỏ gọn đi nơi khác, chỉ cho khách xem "hòn non bộ" của mình.
Trong số đó có những vị khách tiền bạc rủng rỉnh, sẵn sàng dốc túi để ôm cây mang đi. Rồi thì khi quanh vùng đều xôn xao chuyện "ông Ngọc có cây hóa thạch tiền tỉ", thì ông ít dám vắng nhà, đi đâu cũng vội vội vàng vàng trở về trông cây. Lâu dần, mệt mỏi, ông cho cây đi "sơ tán", nói dối là đã trao tay cho ai đó.
Ông Ngọc và phần rễ của Triệu Đô bị đứt gãy khi đem cây đá từ trong hang về
Những người dân xóm núi chất phác này cũng nhanh chóng quên đi chuyện khóm cây đá, bởi họ nghĩ, cây đá có lạ thì cũng chẳng đắt đỏ thế, vả lại chưa thấy ai mài cây đá ra mà ăn được, ai cũng phải bận bịu đầu tắt mặt tối với cuộc mưu sinh.
Nhưng theo ông Ngọc, đám thương lái thì không. Thời điểm đó, thương lái đòi mua cây đá của ông Ngọc nhiều nhất là người đến từ Lạng Sơn. Họ kiên nhẫn đi về thôn Tráng dập dìu, vác cả bao tải tiền, mềm mỏng năn nỉ, thuyết phục, chỉ chờ cái gật đầu của ông Ngọc.
Vị khách nào cũng vậy, cứ xem cây xong là sôi lên sùng sục, đòi ông quyết ngay. Người trả thấp thì cũng 3 triệu đô la Mỹ, sẽ chuyển trước vào tài khoản cho ông Ngọc yên tâm rồi mới vác cây đi sau. Cũng có người sẵn sàng đặt cọc khoản tiền rất lớn, cả đời người dân xóm núi như ông không mơ tới, chỉ mong khi nào ông hồi tâm chuyển ý thì gọi cho họ, rồi thì giá nào họ cũng lấy.
Ông Ngọc thú thực: "Khách Lạng Sơn qua lại nhiều lần lắm, nhưng tôi không bán. Tôi sợ cái kiểu giao dịch ấy, nó có vẻ giang hồ thế nào ấy, nên từ chối hết, giấu cây đi và bảo là đã bán rồi. Vả lại, nếu bán cho họ, khóm cây kiểu gì chẳng được tuồn sang nước ngoài.
Chả biết tôi được bao nhiêu tiền, con cái được sung sướng đến đâu, nhưng chắc ở nước ta không còn cái cây độc đáo này nữa. Đó không phải là mong muốn của tôi. Kiên quyết giữ là vậy, nhưng lúc đó tôi cũng sợ. Sợ nhất là an toàn tính mạng của mình và gia đình, vì khi người ta đã thèm muốn quá mức mà không được, dễ bất chấp thủ đoạn để chiếm giữ".
Theo xahoi
Ra mắt tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông lớn nhất Việt Nam Sau 4 tháng thi công, các nghệ nhân đã tạc thành công bức tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông từ khối ngọc bích nặng hơn 4,5 tấn. Đây được đánh giá là bức tượng Phật hoàng bằng ngọc bích lớn nhất Việt Nam. Tượng vua Trần Nhân Tông bằng ngọc bích lớn nhất Việt Nam Theo nhóm phật tử khởi xướng, công trình...