Bệnh lao và cách phòng tránh
Hiện nay, tất cả các thể lao được phát hiện sớm đều có thể điều trị khỏi gần như hoàn toàn trong thời gian dưới 1 năm bằng các thuốc chống lao đặc hiệu.
* Bệnh lao
Bệnh lao có thể gặp ở tất cả các bộ phận của cơ thể và được chia ra thành 2 thể chính là lao phổi và lao ngoài phổi. Lao phổi là thể lao hay gặp nhất, chiếm tới 80-85% các trường hợp mắc lao và là nguồn lây chính cho người xung quanh. Lao ngoài phổi có thể gặp: lao hạch bạch huyết, lao màng phổi, lao màng não, lao màng bụng, lao ruột, lao xương khớp, lao hệ sinh dục – tiết niệu. Những người bị bệnh lao ngoài phổi ít có nguy cơ truyền bệnh cho người khác hơn.
Về phân loại, vi khuẩn gây bệnh lao cho người có tên là mycobacterium tuberculosis. Ngày nay, căn cứ vào đặc điểm kháng acid, người ta gọi chúng là vi khuẩn kháng cồn toan, viết tắt là AFB (acid fast bacilli).
Bác sĩ Bệnh viện Phổi Đồng Nai khám cho một bệnh nhân lao
Vi khuẩn lao đi vào cơ thể qua đường hô hấp là phổ biến nhất. Bệnh nhân lao khi ho, hắt xì, nói chuyện hay khạc nhổ làm bắn các hạt rất nhỏ lơ lửng trong không khí, phân tán xung quanh người bệnh, người lành hít các hạt này khi thở có thể bị bệnh. Các đường lây khác ít gặp hơn đó là đường tiêu hóa, đường da niêm mạc, đường máu qua tĩnh mạch dây rốn lây bệnh cho thai nhi hoặc qua nước ối nếu mẹ bị lao tử cung, âm đạo.
Tất cả các bệnh nhân lao đều có thể là nguồn lây, nhưng mức độ lây khác nhau. Nguồn lây chính của bệnh lao là những bệnh nhân bị lao phổi có AFB dương tính trong đờm (phát hiện bằng phương pháp nhuộm soi trực tiếp, tức là có khoảng trên 5 ngan vi khuẩn trong 1ml đờm).
Bệnh lao có quá trình diễn tiến qua 2 giai đoạn: nhiễm lao và bệnh lao. Chỉ khoảng 10% ca nhiễm vi khuẩn lao tiến triển thành bệnh lao.
Giai đoạn nhiễm lao là khi cơ thể chưa bao giờ tiếp xúc với trực khuẩn lao, bị trực khuẩn lao xâm nhập lần đầu tiên. Đa số người bị lây chỉ ở tình trạng lao nhiễm, không chuyển sang giai đoạn lao bệnh.
Giai đoạn lao bệnh là thứ phát chỉ xảy ra khi có sự mất thăng bằng giữa khả năng gây bệnh của trực khuẩn lao và sức đề kháng của cơ thể. Khi có số lượng và độc tính của vi khuẩn lao vượt quá sức đề kháng của cơ thể thì dẫn đến lao thứ phát.
Video đang HOT
Người nghi lao phổi khi có các triệu chứng sau: ho kéo dài trên 2 tuần (ho khan, ho có đờm, ho ra máu) là triệu chứng nghi lao quan trọng nhất. Ngoài ra có thể: sút cân, kém ăn, mệt mỏi; sốt nhẹ về chiều; ra mồ hôi “trộm” ban đêm; đau ngực, đôi khi khó thở. Khi có các triệu chứng nghi ngờ trên cần đến ngay cơ sở chuyên khoa lao để thực hiện các xét nghiệm xác định sự tồn tại của vi khuẩn lao.
Nhóm nguy cơ cao bao gồm: người nhiễm HIV; người tiếp xúc trực tiếp với nguồn lây, đặc biệt trẻ em; người mắc các bệnh mạn tính: loét dạ dày – tá tràng, đái tháo đường, suy thận mãn; người nghiện ma tuý, rượu, thuốc lá, thuốc lào; người sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch kéo dài như corticoid, hoa chất điều trị ung thư…
Đối với lao ngoài phổi khó chẩn đoán xác định hơn, luôn tìm kiếm xem có lao phổi phối hợp không, nếu có lao phổi sẽ là cơ sở quan trọng cho chẩn đoán lao ngoài phổi. Chẩn đoán lao ngoài phổi đơn thuần không kết hợp với lao phổi thường khó khăn, cần dựa vào triệu chứng nghi lao (sốt về chiều kéo dài, ra mồ hôi ban đêm, sút cân); triệu chứng tại chỗ nơi cơ quan bị tổn thương, nguy cơ mắc lao. Mức độ chính xác của chẩn đoán phụ thuộc nhiều vào khả năng phát hiện của các kỹ thuật hỗ trợ như: X-quang, siêu âm, sinh thiết, xét nghiệm vi khuẩn học. Cần luôn chẩn đoán phân biệt với các bệnh khác.
Để chẩn đoán xác định vi khuẩn lao có các phương pháp sau: nhuộm soi đờm trực tiếp tìm AFB, phương pháp nuôi cấy, phương pháp sinh học phân tử và một số kỹ thuật hiện đại khác như: phản ứng miễn dịch gắn men (ELISA), miễn dịch huỳnh quang…
* Cách phòng ngừa bệnh lao
Phương pháp phòng bệnh lao hiệu quả nhất hiện nay là tiêm vaccine HCG phòng lao cho trẻ sơ sinh, trẻ dưới 1 tuổi.
Ngoài ra, bệnh lao là một bệnh xã hội, do đó cần cải thiện điều kiện sống, sinh hoạt, làm việc và làm trong sạch môi trường sống để làm giảm nguy cơ mắc bệnh.
Đeo khẩu trang khi ra ngoài đường và khi vào bệnh viện, những nơi có nguy cơ lây nhiễm bệnh lao.
Với những người đang bị nhiễm lao cần tránh lây nhiễm lao cho người xung quanh: Dùng khẩu trang hoặc ít nhất có khăn che miệng khi tiếp xúc nói chuyện với người khác, khi hắt hơi, ho; không khạc nhổ bừa bãi, khạc đờm vào khăn giấy rồi đốt, rửa tay xà phòng thường xuyên; thường xuyên phơi nắng đồ dùng cá nhân, chiếu, chăn, màn.
BS.Hồ Thị Hồng (Trung tâm Kiểm soát bệnh tât tỉnh Đồng Nai)
Theo baodongnai
Bệnh lao hạch có nguy hiểm?
Không nguy hiểm và lây nhiễm như lao phổi, bệnh lao hạch không gây tử vong và có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, đây là căn bệnh khá phổ biến, bệnh cũng kéo dài và gây ra nhiều bất tiện trong sinh hoạt.
Lao hạch là bệnh thứ phát, xuất hiện sau bệnh lao ở nơi khác trong cơ thể, như lao sơ nhiễm hoặc lao phổi. Vi trùng lao sau khi vào phổi, gây tổn thương ở đây (lao phổi) rồi di chuyển tới hạch và ra gây lao hạch.
Triệu chứng của lao hạch
Nếu như ho là triệu chứng đầu tiên và quan trọng của bệnh lao phổi, thì người bệnh bị lao hạch không ho. Khi bị lao hạch, người bệnh có thể thấy mệt mỏi và sốt nhẹ. Trừ trường hợp bị bội nhiễm hoặc có kèm theo tổn thương lao ở các cơ quan khác như phổi, xương,... thì bệnh sẽ có triệu chứng nặng nề hơn. Người bệnh lao hạch có thể cũng thấy ăn không ngon, sụt cân do chán ăn...
Người bệnh lao hạch thường có hạch sưng to, thành từng chùm, từng chuỗi ở một vùng, nhiều nhất là ở cổ. Hạch sưng không đồng đều, không đau và không dính. Bề mặt da vùng nổi hạch nhẵn, sưng to như không nóng và không tấy đỏ. Hạch sưng to dần dần về mặt kích thước, khi to thì mềm ra, lúc đó hạch có thể vỡ và chảy mủ, trông giống như bã đậu, khó liền sẹo, hay rò. Nếu thành sẹo thì sẹo bị co kéo, có hình dúm dó, miệng sẹo tím như quả bồ quân.
Hạch lao phát triển qua 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu: Hạch bắt đầu sưng to, với các hạch to nhỏ không đều nhau, chưa dính vào da và cũng chưa dính vào nên di động còn dễ.
Giai đoạn sau: Giai đoạn này chuyển sang thể viêm hạch và viêm quanh hạch. Lúc này các hạch có thể bị dính vào với nhau thành các mảng, có thể hoặc chưa dính vào da và các tổ chức xung quanh. Nếu có sẽ làm hạn chế di động.
Giai đoạn nhuyễn hóa: Các hạch mềm dần, da vùng hạch bắt đầu sưng tấy đỏ nhưng không nóng và không đau. Khi hạch đã hóa mủ thì dễ vỡ, nếu để tự vỡ sẽ gây những lỗ rò lâu liền, miệng lỗ rò màu tím ngắt, tạo thành sẹo lồi, nhăn nhúm, sùi trắng hoặc thành những dây chằng xơ.
Riêng ở thể khối u (viêm hạch lao phì đại) rất ít gặp có triệu chứng sau: Xuất hiện khối u ở cổ, một hay vài hạch nổi to, sau đó dính thành một khối lớn không đau, di động, không có viêm quanh hạch, sờ chắc. Khối u hạch to dần, chiếm gần hết vùng bên cổ khiến các hạch khác (dưới hàm, mang tai...) cũng bị phì đại. U nằm ở một bên hoặc cả 2 bên làm cho cổ như bị bạnh ra.
Phân biệt hạch và lao hạch
Bình thường các hạch của cơ thể rất nhỏ, chỉ lớn bằng hạt thóc, hạt đỗ, hạt ngô nhỏ. Các hạch mềm nằm lẫn trong các mô xung quanh, ở tổ chức mỡ dưới hay hay lẫn trong thớ cơ nên khó nhận biết.
Khi hạch đã có thể sờ nắn thấy nghĩa là chúng đã sưng to. Nếu hạch lúc sưng lúc giảm, lúc không lúc đau thì có thể là hạch viêm do nhiễm khuẩn thông thường. Nếu hạch có sưng nóng, đỏ, sờ thấy đau, mật độ mềm thì sau dùng kháng sinh, nếu hạch bớt sưng đau, kích thước nhỏ đi thì là viêm hạch do nhiễm khuẩn.
Nếu hạch cứng, phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, sờ như hạt đạn chì, chân lan tỏa như rễ cây thì phải coi chừng đây có thể là hạch ung thư hoặc hạch di căn ung thư.
Nếu hạch phát triển chậm, sờ nắn không đau, mềm căng thì có thể là lao hạch.
Bệnh lao hạch có lây không?
Với lao phổi, do vi trùng lao thâm nhập vào phổi và sinh sôi, nên lao phổi là một bệnh rất dễ lây truyền giữa người sang người thông qua đường hô hấp. Những người bị bệnh lao phổi, hoặc lao thanh quản, phế quản, khi ho sẽ khạc ra vi khuẩn lao có trong những hạt nước bọt li ti, hoặc các hạt bụi nhỏ. Những người tiếp xúc với bệnh nhân lao sẽ dễ dàng hít vào và gây bệnh tại phổi.
Không giống như lao phổi, trường hợp bệnh nhân lao hạch, do vi khuẩn lao chỉ khu trú trong hạch gây viêm và không rò rỉ ra bên ngoài, do đó, bệnh lao hạch không lây truyền trực tiếp từ người sang người.
Bệnh lao hạch có chữa khỏi không?
Người bệnh lao hạch sẽ được điều trị nội khoa dưới sự hướng dẫn của bác sĩ và thầy thuốc chuyên khoa, uống thuốc điều trị lao hạch theo phác đồ điều trị lao liên tục trong khoảng 9 tháng là tối thiểu. Liều dùng tùy thuộc vào cân nặng và tuân theo phác đồ điều trị do bác sĩ chuyên khoa quyết định. Người bệnh cần tuân thủ điều trị theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa để điều trị dứt điểm bệnh lao, tránh tình trạng vi khuẩn lao xâm nhập và gây bệnh ở những cơ quan khác trong cơ thể.
Bị lao hạch có phải mổ không cũng là thắc mắc của nhiều người. Bệnh lao hạch được điều trị ngoại khoa, phẫu thuật - mổ lấy toàn bộ hạch khi hạch hóa mủ nhưng lại không đáp ứng khi chọc dò và điều trị kết hợp với kháng sinh, hoặc là bị u lympho lao hạch, lao không thành mủ, khu trú. Mổ và nạo vét sạch mủ bã đậu ở hạch cũng là cách điều trị có hiệu quả. Tuy nhiên, việc điều trị lao hạch tốt nhất là nên điều trị bệnh lao trước khi phẫu thuật để tránh lây lan vi khuẩn lao.
Theo congthuong.vn
GlaxoSmithKline thử nghiệm vắc xin ngừa lao mới Các nhà khoa học đã thực hiện thử nghiệm vắc xin M72 / AS01E ngừa lao mới trên gần 3.600 người ở châu Phi bị bệnh lao tiềm ẩn và thu được hiệu quả 50%, mở ra hy vọng thay đổi thực trạng công tác phòng ngừa căn bệnh chết người này. Vắc xin mới bao gồm các protein được lấy từ vi...