Bến Tre: Phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng và công nghệ cao
Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre đã ban hành Kế hoạch phát triển khu vực dịch vụ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, ngành về chiến lược phát triển ngành dịch vụ trong thời gian tới.
Dưa lưới ứng dụng công nghệ cao mang lại hiệu quả kinh tế cao. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN
Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam cho biết, tỉnh đặt mục tiêu phát triển khu vực dịch vụ trở thành khu vực chủ chốt, chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế với chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh cao. Tỉnh chú trọng cơ cấu lại ngành dịch vụ theo hướng nâng cao năng lực cạnh tranh, tập trung nguồn lực phát triển một số ngành dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: tài chính, ngân hàng; logistics, vận tải; công nghệ thông tin và truyền thông; khoa học, công nghệ; giáo dục, đào tạo, y tế, du lịch…
Cùng đó, Bến Tre xây dựng cơ sở hạ tầng của khu vực dịch vụ thông qua việc tập trung phát triển các ngành dịch vụ “cơ sở hạ tầng” bao gồm: công nghệ thông tin và truyền thông, giáo dục, logistics, vận tải, tài chính – ngân hàng; xây dựng “hệ sinh thái” dịch vụ để tạo đột phá trong phát triển dịch vụ. Mặt khác, tỉnh chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụ theo hướng nâng cao tỷ trọng của các ngành dịch vụ ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin để tác động, lan tỏa đến nhiều lĩnh vực dịch vụ khác.
Cụ thể, giai đoạn 2021- 2025, tỉnh phấn đấu tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 7,8%; tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP đạt 42,68% vào năm 2025. Đến năm 2025, tỷ trọng lao động các ngành dịch vụ qua đào tạo có chứng chỉ đạt khoảng 75%. Ngoài ra, tỉnh tiếp tục phát triển nguồn lao động trình độ chuyên môn, năng lực nghề nghiệp, thành thạo kỹ năng, có phẩm chất đạo đức tốt, tác phong chuyên nghiệp, đáp ứng yêu cầu sản xuất, kinh doanh của đơn vị sử dụng lao động, nhất là lao động thuộc ngành dịch vụ.
Đến năm 2025, tỉnh phấn đấu 90% phí dịch vụ công được thanh toán qua ngân hàng; tỷ lệ người dùng internet là 95%, tỷ lệ thuê bao internet băng thông rộng có dây là 80%; công nghệ thông tin trở thành ngành kinh tế có tốc độ phát triển nhanh, bền vững, doanh thu cao. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn 2021- 2025 tăng 17%/năm; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt khoảng 415.000 tỷ đồng; giá trị gia tăng thêm lĩnh vực thương mại trong nước đến năm 2025 đóng góp khoảng 22% vào GRDP.
Riêng về glogistics và vận tải, Bến Tre phấn đấu đến năm 2025, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hành khách đạt khoảng 14.306.800.000 hành khách/km (tương đương khoảng 309.500.000 lượt khách), tổng sản lượng vận tải toàn ngành khoảng 16.220.000.000 tấn/km (tương đương 70.000.000 tấn hàng hóa), vận tải hành khách công cộng đáp ứng khoảng 12% nhu cầu đi lại của tỉnh; tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GRDP đạt 5%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 6%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 20%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 10% GRDP.
Theo Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre, để đạt mục tiêu đề ra, tỉnh chú trọng phát triển các ngành dịch vụ ưu tiên như dịch vụ du lịch, logistics, vận tải, dịch vụ công nghệ thông tin, truyền thông, dịch vụ tài chính – ngân hàng. Theo đó, phát triển Bến Tre trở thành điểm đến sinh thái và trải nghiệm văn hóa hàng đầu khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đối với khách quốc tế, là điểm dến nghỉ dưỡng ngắn ngày hàng đầu khu vực đối với du khách trong nước.
Thêm vào đó, Bến Tre phát triển thị trường vận tải gắn liền với nâng cao năng lực hoạt động, hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp theo cơ chế thị trường; bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài ra, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng logistics một cách đồng bộ, hợp lý; tạo điều kiện, khuyến khích, hỗ trợ, mời gọi đầu tư vào lĩnh vực logistics. Tỉnh hoàn thiện hạ tầng viễn thông, hạ tầng kết nối trục liên thông phục vụ cho việc xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số; cầu truyền hình trực tuyến đến cấp huyện, cấp xã.
Video đang HOT
Bến Tre nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ tài chính – ngân hàng theo hướng đổi mới quy trình, thủ tục tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; tăng trưởng tín dụng phù hợp với yêu cầu phát triến kinh tế – xã hội và mục tiêu của chính sách tiền tệ; triển khai hiệu quả các chương trình, chính sách tín dụng, chương trình kết nối ngân hàng- doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn vay…
Ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến nho
Vùng đất Ninh Thuận vốn sở hữu thời tiết đầy nắng và gió, gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp.
Vườn nho chín chuẩn bị cho thu hoạch. Ảnh: Mạnh Linh/Báo Tin tức
Thế nhưng cũng chính điều kiện thời tiết này lại tạo điều kiện thuận lợi cho cây nho phát triển. Dựa trên thế mạnh của vùng đất đối với cây nho, tỉnh Ninh Thuận đã phát huy lợi thế, sẵn sàng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và chế biến nho, xây dựng thương hiệu nho Ninh Thuận để tăng cạnh tranh với các thị trường.
Nâng chất lượng nho tươi bằng công nghệ cao
Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ nho tươi của các thị trường trong nước và quốc tế rất lớn, đặc biệt là nho chất lượng cao, giòn, ngọt, thơm nhẹ càng được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn. Chính vì vậy, sản xuất nho giống mới và mở rộng sản xuất đang được tỉnh Ninh Thuận đẩy mạnh.
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, cả tỉnh hiện có 1.300 ha sản xuất nho tươi và nho chế biến rượu, sản lượng cung ứng ra thị trường khoảng 30.000 tấn/năm; trong đó, nho ăn trái chiếm 80% sản lượng này.
Nắm bắt được xu thế tiêu dùng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận đã cùng Viện Nghiên cứu Bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố (Ninh Thuận) phát triển nhiều loại giống nho chất lượng cao mới như NH01-152, NH01-26, Black Queen 193... để có thể giúp người trồng nho phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập so với trước đây.
Thế nhưng để sản xuất được các giống nho này đòi hỏi người trồng phải áp dụng công nghệ vào quá trình chăm sóc. Có như vậy, cây nho mới đủ điều kiện phát triển và cho chất lượng cao, đủ khả năng cạnh tranh với nho nhập khẩu.
Ông Phạm Văn Phước, Giám đốc Trung tâm tư vấn và Phát triển công nghệ, Viện Nghiên cứu bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố, Ninh Thuận chia sẻ, sản xuất nho công nghệ cao có sử dụng giàn chữ y, mái che mưa, lưới chắn côn trùng, chắn gió di động. Mặc dù chi phí sử dụng cho cách sản xuất mới cao gấp 3-4 lần so với trồng nho kiểu cũ, nhưng giúp giảm hẳn sâu bệnh hại, giảm kinh phí diệt sâu bệnh hại trên cây nho.
Đặc biệt, sử dụng hệ thống tưới nước tiết kiệm nên giảm chi phí công tưới nước, tiết kiệm được lượng phân bón vì phân bón đã hòa theo nước. Sản xuất theo kiểu giàn mới sẽ giúp sản xuất được 2 vụ/năm mà không bị thời tiết bất thường tác động.
Trong quá trình sản xuất, người trồng phải cân đối giữa năng suất và chất lượng nho vì nếu để vườn phát triển năng suất thì chất lượng trái nho sẽ không như mong muốn. Khi áp dụng bón phân phải cân đối giữa đạm và kali để trái nho phát triển màu như mong muốn.
Gia đình anh Phạm Thế Anh tiên phong trồng giống nho NH01-26 ở thôn Thái An, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải cho biết, qua hơn 2 năm trồng giống nho mới này, phù hợp với điều kiện canh tác hữu cơ, thời gian sinh trưởng ngắn ngày khoảng 8 đến 10 tháng, người trồng có thể canh tác 3 vụ/năm, năng suất từ 12 tấn đến 18 tấn/ha, khả năng ra hoa đậu quả tốt, gia đình anh mở rộng diện tích lên 3.000 m2. Đây là loại nho có lá dày nhiều lông, có khả năng chống chịu với các loại sâu bệnh, nhất là bệnh thán thư, mốc sương. Giá bán cao gấp nhiều lần so với giống nho đỏ truyền thống.
Trong thời gian tới, Viện cũng sẽ tiếp tục nghiên cứu ra giống nho mới chất lượng cao, cùng với ứng dụng kỹ thuật vào quá trình canh tác, ứng dụng sản xuất hữu cơ..., doanh nghiệp lớn có thể cơ giới hoá, tự động hoá, giảm lao động trong khâu sản xuất, nâng cao hiệu quả khi sản xuất quy mô lớn, giúp xây dựng và khẳng định thương hiệu nho Ninh Thuận, ông Phạm Văn Phước, Giám đốc Trung tâm tư vấn và Phát triển công nghệ, Viện Nghiên cứu bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố, Ninh Thuận cho biết thêm.
Theo TS. Phan Công Kiên, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu bông và phát triển nông nghiệp Nha Hố, trong thời gian tới, Viện Nghiên cứu bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố sẽ tuyên truyền nhân rộng giống thích ứng thời ứng, giúp chuyển giao tiên bộ khoa học kỹ thuật mới trong việc thay đổi giàn chữ y với vật liệu nông dân hiện có, chuyển giao giải pháp đồng bộ để nông dân ứng dụng có hiệu quả, nâng cao giá trị sản phẩm.
Giá bán ra cao hơn canh tác truyền thống khoảng 20%, lợi nhuận vượt 35% so với canh tác thông thường, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm so với nho nhập khẩu. Cách canh tác này theo tiêu chí an toàn, GlobalGAP, đàm bảo cho sức khỏe người tiêu dùng. Cuối năm 2022 có thể nhân rộng và phát triển đại trà.
Thêm giải pháp nâng cao giá trị sản phẩm nho
Sản phẩm nho Ninh Thuận được người trồng nho liên kết sản xuất để có thể nâng cao giá trị cho trái nho. Với sản lượng cung ứng thị trường 30.000 tấn/năm, có 20% sản lượng dùng để cung ứng cho chế biến các sản phẩm nho như nước nho lên men, mật nho, nho sấy khô, rượu nho...
Hiện các sản phẩm nho chế biến cũng được UBND tỉnh Ninh Thuận chỉ đạo các địa phương mở rộng sản xuất, đưa vào chương trình OCOP (mỗi xã một sản phẩm) của tỉnh. Các sản phẩm nho Ninh Thuận hiện là 1 trong 62 sản phẩm OCOP được nhiều người tiêu dùng nội địa biết đến.
Ông Nguyễn Đoàn Thiện Phú, phụ trách kinh doanh Hợp tác xã EVERGREEN chia sẻ, bên cạnh phát triển sản phẩm nho tươi, Hợp tác xã EVERGREEN còn có nước nho lên men đỏ và xanh, nho sấy đỏ và xanh, giấm nho được sản xuất theo quy trình khép kín an toàn thực phẩm.
Tất cả các sản phẩm này đều được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận cho hợp tác xã và chỉ dẫn địa lý nho Ninh Thuận. Hợp tác xã cũng áp dụng dán tem truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm, tạo niềm tin cho người tiêu dùng. Nhiều đơn vị đã ký kết tiêu thụ sản phẩm nho của hợp tác xã, đưa vào hệ thống siêu thị trong và ngoài tỉnh Ninh Thuận với sản lượng 5 tấn/tháng, giúp các thành viên nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống.
Sản xuất và chế biến nho làm rượu hiện đang là nhu cầu rất lớn của thị trường trong nước. Khi đã đạt được chất lượng có thể cạnh tranh với một số sản phẩm rượu nho nhập khẩu, đây là cơ hội lớn để sản xuất nho Ninh Thuận phát triển hơn nữa.
Ông Thạch Vũ Vương, xã Phước Thuận, huyện Ninh Phước cho biết, gia đình trồng 1 ha nho Syrah liên kết sản xuất với công ty chế biến rượu vang nho tại Đà Lạt (tỉnh Lâm Đồng). Chi phí đầu tư ban đầu cho 1 sào nho Syrah khoảng trên 40 triệu đồng, tương đương so với trồng các giống nho khác. Trồng nho rượu không đòi hỏi kỹ thuật quá cao, tuy nhiên phải tuân thủ kỹ thuật canh tác để đạt sản lượng và chất lượng cao. Vườn nho Syrah cho thu hoạch 3 vụ/năm, sản lượng bình quân khoảng 15 tấn/ha/vụ.
Nho rượu tùy theo độ Brix (độ ngọt, chỉ số quan trọng trong việc nâng cao chất lượng các loại rượu vang trong quá trình ủ, lên men) được công ty bao tiêu thu mua với giá tối thiểu 15.000 đồng/kg, nếu hàm lượng độ Brix càng cao (hơn 18% là tốt nhất) thì giá có thể tăng lên 1,5 lần và thậm chí hơn. Lấy giá bán bình quân 15.000 đồng/kg, vườn nho cho doanh thu khoảng 225 triệu đồng/vụ.
Theo ông Đặng Kim Cương, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Ninh Thuận, để nâng cao giá trị sản xuất, ngành nông nghiệp tỉnh Ninh Thuận tiếp tục phối hợp các viện, cơ quan đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu, chọn tạo những giống nho mới bao gồm nho tươi và nho ủ rượu có sức đề kháng sâu bệnh, năng suất cao, chất lượng tốt cung cấp kịp thời cho sản xuất và tiêu dùng.
Hiện nay, bên cạnh cung cấp sản phẩm nho tươi, tỉnh tập trung nghiên cứu đa dạng hóa các sản phẩm, chú trọng đến các sản phẩm chế biến sâu từ quả nho. Để thực hiện, ngành nông nghiệp phối hợp các địa phương tiếp tục rà soát, lập quy hoạch phát triển cây nho, quy hoạch vùng nguyên liệu trồng nho rượu để tạo nguồn nguyên liệu ổn định và lâu dài cho sản xuất công nghiệp. Đồng thời, tăng cường huy động các nguồn lực, dự án hỗ trợ đầu tư, tạo điều kiện cho người trồng nho liên kết với các doanh nghiệp, hợp tác xã cùng tham gia đầu tư, sản xuất nho rượu theo chuỗi giá trị.
Khánh Hòa sẽ lên thành phố trực thuộc trung ương, có 3 vùng kinh tế trọng điểm Chính phủ vừa có Nghị quyết về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 28/1/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển tỉnh Khánh Hòa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Khánh Hòa sẽ trở thành thành phố trực thuộc trung ương vào năm 2030. Theo Nghị quyết này, Chính phủ đề ra mục tiêu...