Bến quê Nơi “neo đậu” vẻ đẹp đích thực
Đọc ‘Bến quê’ của nhà văn Nguyễn Minh Châu, một lần nữa, độc giả cảm nhận được triết lý mang đậm cảm hứng thế sự, rất đỗi thiêng liêng mà giản dị.Bến quê, nơi con người tìm về và ‘neo đậu’ những vẻ đẹp đích thực của cuộc đời mình.
Bến quê – nơi “neo đậu” những vẻ đẹp đích thực. Ảnh: Thế Lượng
Bất chợt nhận ra…
Câu chuyện kể về nhân vật Nhĩ, một người đã đi cùng trời cuối đất để tìm cái đẹp ở những nơi vốn dĩ xa lạ. Cuối đời, do bệnh tật, phải buộc chặt cơ thể với giường bệnh, trở về căn nhà của mình, Nhĩ khi ấy mới nhận ra những vẻ đẹp đời thường mà cả đời anh có lẽ chưa nhận ra được. Phút giây Nhĩ nhận ra vẻ đẹp của khung cảnh thiên nhiên, đặc biệt là bãi bồi ven sông cũng là khoảnh khắc chuyển mùa của thiên nhiên.
Khi đón từng thìa thức ăn, vừa ăn, vừa nghĩ, Nhĩ đã nhận thức được sự thay đổi của thiên nhiên xung quanh không gian ngôi nhà của mình: “Ngoài cửa sổ bấy giờ những bông hoa bằng lăng đã thưa thớt… hoa đã vãn trên cành…”. Và xa xa hơn, trong cái nhìn của Nhĩ như dõi sang phía bên kia của dòng sông Hồng, anh như cảm nhận được không gian nơi bãi bồi đang rộng ra, lộ rõ từng chi tiết, từng gam màu và hút vào tâm hồn anh như lần đầu trông thấy: “…Và cả một vùng phù sa lâu đời của bãi bồi bên kia sông Hồng lúc này đang phô ra trước khuôn cửa sổ của gian gác nhà Nhĩ một thứ màu vàng thau xen lẫn màu xanh non – những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”.
Không gian bãi bồi sông Hồng được Nhĩ quan sát khá kỹ lưỡng, anh nhận thấy cái đẹp đang phô ra trước nhà anh, trước mắt anh, những hình ảnh, màu sắc tươi mới hòa vào tia nắng đang loang trên mặt sông. Trong giây phút ấy, cảm xúc của Nhĩ vừa hướng ngoại nhưng lại vừa hướng nội, anh hướng cái nhìn ra bãi bồi để cảm nhận ở đó bức tranh thiên nhiên đang ngồn ngộn sức sống, Nhĩ hướng vào lòng mình để suy ngẫm chất chứa sự dằn vặt: “Suốt đời Nhĩ từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên Trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến – cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình”.
Một nghịch lý xuất hiện trong suy nghĩ của Nhĩ rằng, phía trước cửa sổ nhà anh, một bức tranh tuyệt đẹp, một khung cảnh thơ mộng mà cả đời anh không nhận ra. Hôm nay, bức tranh ấy vừa lạ, vừa gần gũi đã tác động đến nhận thức của anh, khiến anh nhận ra vẻ đẹp đích thực, không phải tìm kiếm đâu xa, khiến anh có khao khát được một lần bước sang bãi bồi ấy.
Càng ngắm nhìn bãi bồi qua cửa sổ, Nhĩ càng cảm thấy ngạc nhiên trước vẻ đẹp của nó: “Trong khi lại nghiêng mặt ra ngoài cửa sổ, anh ngạc nhiên nhận thấy những cánh hoa bằng lăng càng thẫm màu hơn – một màu tím thẫm như bóng tối…”. Tâm hồn Nhĩ càng dậy lên niềm khao khát được đến “cái miền đất mơ ước” ấy khi nhìn thấy cánh buồm trên mặt sông, gần sát cửa sổ nơi anh ngồi: “Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ ở một khúc sông Hồng…”.
Điểm tựa gia đình
Video đang HOT
Trở lại với không gian thực tại, khi mọi thứ trở nên quá khó khăn đối với anh, di chuyển, đau nhức cơ thể, Nhĩ gặp bọn trẻ trong xóm, những đứa trẻ líu ríu giúp anh “đi nốt nửa vòng Trái đất”, chúng giúp anh “đặt một bàn tay lên bậu cửa sổ, kê cao thêm dưới mông anh bằng cả một chiếc chăn…”. Trong khoảnh khắc ấy, anh bỗng “nhận thấy hoàn cảnh của mình thật đáng buồn cười, y như một chú bé mới đẻ đang toét miệng cười với tất cả, tận hưởng sự thích thú được chúng chăm sóc và chơi với”. Nhĩ đã có được niềm vui nhỏ bé từ bọn trẻ trong xóm, anh thấy lòng mình trẻ lại, thấy “càng yêu lũ trẻ trong ngôi nhà mình”. Niềm vui ấy đâu phải tìm kiếm ở một nơi xa lắc nào đó mà nó đã có được ngay trong ngôi nhà của anh, từ những đứa trẻ hàng xóm.
Trong những ngày nằm trên giường bệnh, Nhĩ đã nhận ra hình ảnh người vợ hiền. Liên bấy lâu nay âm thầm chăm sóc anh, không hề kêu ca một câu khi anh bôn ba khắp nơi, khắp chốn. Hình ảnh một cô gái “mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ” vẫn in đậm trong tâm hồn anh ngày đầu cưới Liên về từ một làng bên kia sông.
Trong Nhĩ lúc này đã có sự suy ngẫm, so sánh để đi đến nhận thức một điểm tương đồng giữa bãi bồi và hình ảnh người vợ: “Tuy vậy, cũng như cảnh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét tảo tần và chịu đựng hi sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bôn tẩu, tìm kiếm… Khi Liên “đưa những ngón tay gầy guộc âu yếm”, nhìn Liên mặc tấm áo vá, Nhĩ đã cất lên những lời phân trần đầy ân hận: “Suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm… mà em vẫn nín thinh”. Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này. Có lẽ đây là sự nhận thức quan trọng nhất của Nhĩ.
Nếu khi nhận thấy bãi bồi bên kia sông là bức tranh thiên nhiên thân thuộc thì hình ảnh Liên, người vợ tảo tần, chịu thương chịu khó đã khơi dòng cảm xúc cho sự trở về của con người anh. Những bôn tẩu, những khao khát kiếm tìm, những hành trình đâu bằng sự trở về chốn tựa nương vững chắc, chan chứa tình yêu thương, đó là gia đình của anh. Giờ đây, gia đình chính là điểm tựa, là nguồn nâng đỡ anh chống chọi với bệnh tật, giúp anh tìm về những vẻ đẹp đời thường, bình dị mà thiêng liêng, cao quý.
Do không thể đi đò sang bãi bồi để thỏa lòng mong ước, Nhĩ đã nhờ thằng con trai sang đó. Đôi mắt anh dõi theo đứa con đầu đội mũ cói, mặc chiếc sơ mi màu trứng sáo, dõi theo những bước đi “đến hàng cây bằng lăng bên kia đường”. Anh đâu lường được, trên đường đi, do mải chơi, thằng bé “sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố”, đã lỡ chuyến đò trong ngày. Nhĩ nhận thức được cuộc đời con người khó tránh khỏi “những cái điều vòng vèo hoặc chùng chình…”.
Trong tâm can Nhĩ có sự tự nhận thức xen lẫn những ân hận đau đớn về những điều mà anh vừa khám phá: “…Và cái điều riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn…”. Hình ảnh bãi bồi, “con đò đã sang quá nửa sông” trở nên ám ảnh tâm hồn Nhĩ, anh đã đặt chân lên bãi bồi bằng sự tưởng tượng. Nhĩ đã có một cuộc trở về, tìm về những vẻ đẹp đích thực, mà có lẽ cả đời anh đi khắp các miền đất xa lạ cũng không tìm thấy được.
Thông qua câu chuyện, nhà văn Nguyễn Minh Châu gửi đến độc giả thông điệp về cuộc sống, con người dù có đi đến chân trời góc bể, có nhiều nơi để đi nhưng chỉ có một nơi để trở về đó là gia đình. Đó là nơi nương tựa ấm áp nhất của cuộc đời mỗi con người. Vẻ đẹp đích thực, bình dị, thân thuộc có ngay trong chính cuộc sống của mỗi con người, hiện hữu ngay trước mắt chúng ta chứ không phải mải miết kiếm tìm ở đâu xa.
Hoa lê rừng tiền triệu hút khách Thủ đô sau Tết
Sau đào, mai vàng... trưng bày dịp Tết, hoa lê rừng được trồng nhiều tại các vùng cao như Lào Cai, Hà Giang...được dân buôn mang về Hà Nội bán với giá tiền triệu nhưng vẫn hút khách sành chơi trong thời gian này.
Ghi nhận của PV, dọc các con phố Lạc Long Quân, Âu Cơ... không khó bắt gặp các cành lê rừng "chen nhau" xuống phố Thủ đô khoe sắc hoa trắng muốt bắt mắt, thu hút ánh nhìn sau khi cành đào, cành quất, cành mai... xong "nhiệm vụ" chưng dịp Tết.
Hoa lê rừng (hay còn gọi là hoa lê trắng, hoa mắc cọp) vốn được trồng nhiều ở các tỉnh phía Bắc như: Cao Bằng, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn... được các dân buôn đem về Thủ đô bán với giá vài triệu, rẻ nhất là cành nhỏ có giá cũng nửa triệu đồng. "Loài hoa này giá nhập đã cao, thêm cả tiền vận chuyện nữa nên mới có giá bán cao như vậy, ai sành chơi thì mới thấy giá trị của nó", một dân buôn trên đường Âu Cơ chia sẻ.
Hoa lê nở vào mùa xuân, thường là sau dịp Tết Nguyên đán, có màu trắng tinh khôi, khi nở 5 cánh căng nảy bật ra từ thân cành xù xì. Người dân Thủ đô thích thú với loài này, khi cắm tạo được vẻ sang trọng trong nhà. Hoa lê rừng không chỉ đẹp mà còn mang ý nghĩa phong thủy đặc biệt, biểu trưng cho sự thanh khiết, bình yên và ấm áp trong cuộc sống.
Cành lê rừng trắng muốt xuất hiện nhiều tại các con phố Hà Nội như Âu Cơ, Lạc Long Quân...đang hút khách sành chơi.
Hoa lê rừng (hay còn gọi là hoa lê trắng, hoa mắc cọp) vốn được trồng nhiều ở các tỉnh phía Bắc như: Cao Bằng, Lào Cai, Hà Giang, Lạng Sơn...được dân buôn đem về Thủ đô phục vụ người tiêu dùng.
Một dân buôn trên đường Âu Cơ chia sẻ, mỗi ngày có hàng trăm lượt khách qua, đứng lại xem nhưng chỉ có một vài người mua do giá lên hàng triệu đồng: "Họ ép giá xuống nửa triệu, một triệu... với giá đấy thì không thể bán được".
"Loài hoa này giá nhập đã cao, thêm cả tiền vận chuyện từ Sapa nữa nên mới có giá bán cao như vậy, ai sành chơi thì mới thấy giá trị của nó", một dân buôn chia sẻ thêm.
Giá trung bình khoảng 3-4 triệu đồng/cành. Cành nào chưa có hoa rẻ hơn nửa triệu, một triệu, cành bé nhất cũng có giá 500 đồng/cành, có cành to, gốc lâu năm, nhiều nụ, nhiều hoa giá lên đến cả chục triệu đồng.
Hoa lê rừng vốn là loài hoa có sức sống bền vì thế người chơi có thể sử dụng được lâu hơn mà không lo bị héo hay thối gốc.
Những cành lê càng rêu mốc, cằn cỗi... càng hút khách sành chơi.
Không giống như những loại hoa khác, hoa lê nở nhiều đợt, mỗi đợt từ 10 đến 15 ngày, nếu mua những cành còn nhiều nụ, có thể chơi được từ 1 đến 2 tháng.
"Đội ngũ" vận chuyển luôn túc trực ở dọc đường bán cành lê rừng để phục vụ người mua.
Những cánh hoa này có màu trắng ngần, mỗi bông hoa hồm 5 cánh xếp cạnh nhau.
Loài hoa này ngoài vẻ đẹp và độ bền còn biểu tượng cho sự hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, tổ tiên, nên nhiều người dùng những cành nhỏ cắm một bình đặt lên bàn thờ.
Vẻ trắng muốt, độ bền lâu của hoa lê khiến nhiều người dân Thủ đô mê mẩn.
Theo tienphong.vn
"Cảm nhận bằng mắt" Bí quyết giúp các bậc cha mẹ Hàn Quốc nuôi dạy con thông minh, thành công xuất chúng Euny Hong - một nhà văn, nhà báo người Mỹ gốc Hàn đã có những chia sẻ về phương pháp nuôi dạy con đặc biệt của người Hàn Quốc. Dưới đây là chia sẻ của Euny Hong về phương pháp Nunchi: Khi còn nhỏ, một trong những từ đầu tiên tôi được học là "Nunchi" (phát âm là noon-chee), dịch theo nghĩa đen:...