Ben Gurion và lịch sử hình thành nhà nước Israel – Kỳ 6: Chuyển bại thành thắng
Tháng 6.1948, người Do Thái và người Ả Rập ngừng bắn trong bốn tuần. Và ’sứ thần hòa bình’ do Hội đồng Bảo an chỉ định, công tước Thụy Điển Folke Bernadotte, đã đến và ngay lập tức làm việc để có một thỏa thuận ngừng bắn dài hơn giữa các bên tham chiến.
Ben-Gurion đã lãnh đạo Israel giành thắng lợi trong Cuộc chiến Độc lập – Ảnh: GPO
Trong bốn tuần ngừng bắn, quân đội Israel đã có một cuộc cách mạng. Một lượng lớn vũ khí được đưa về nước và đã tuyển mộ lực lượng bổ sung. “Vào lúc kết thúc ngừng bắn lần thứ nhất”, Yigael Yadin nhớ lại, “chúng tôi nắm được thế chủ động trong tay; và sau đó chúng tôi không bao giờ để nó quay lại với lực lượng Ả Rập”. Ngày 8.7, 28 tiếng trước khi kết thúc lệnh ngừng bắn, quân Ai Cập bất ngờ tấn công phía nam, và chiến cuộc lại nổ ra.
Chiến cuộc chỉ kéo dài mười ngày, nhưng nó đem đến cho Israel một số thắng lợi quan trọng. Chiếm được nhiều vùng rộng lớn ở khu vực Galilee và Jerusalem, và hành lang Jerusalem được mở rộng. Các máy bay ném bom B-17 mua từ hải ngoại đã ném bom Cairo và Raffiah trên đường về Israel. Ngày hôm sau, chúng ném bom sân bay El Arish (Ai Cập), trong khi một chiếc Dakota thả bom Damacus (Syria). Khi lệnh ngừng bắn thứ hai có hiệu lực, một tình thế mới đã xảy ra. Những chiến thắng của người Israel trong mười ngày tham chiến đã khiến người Ả Rập và thế giới ngạc nhiên, và lệnh ngừng bắn mới được tuyên bố là vô thời hạn.
Vào ngày 16.9, Bernadotte đưa ra một loạt các đề nghị mới, một số trong đó lặp lại kế hoạch cũ. Rút lại ý tưởng ban đầu là trao Jerusalem cho Ả Rập, ông quay lại với kế hoạch quốc tế hóa nằm dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc. Đề nghị này cũng bị cả hai bên từ chối, nhưng một sự kiện đầy bi kịch, xảy ra sau ngày ông ta trình bày kế hoạch của mình, đã bất ngờ đem đến cho nó một uy lực tinh thần rất lớn. Vào trưa ngày 17.9, đoàn xe chở công tước Bernadotte và các tùy tùng cao cấp của ông ta đi qua các đường phố của Jerusalem Do Thái để gặp thị trưởng thành phố. Khi họ đi qua một khu dân cư xa trung tâm thì bất ngờ một chiếc xe jeep chặn lại. Một nhóm người có vũ trang mang mặt nạ xuất hiện và bắn thẳng vào đoàn xe. Một tay súng đã nã súng máy xuyên qua cửa sổ xe của Bernadotte. Sau khi giết chết một sĩ quan người Pháp, kẻ tấn công đã giáng một đòn chí mạng vào Bernadotte. Những kẻ giết người nhảy lên xe và bỏ chạy.
Xung đột tăng cao sau cái chết của Bernadotte. Trong vòng vài ngày, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tái xem xét các vấn đề liên quan đến Jerusalem và Negev. Kế hoạch của Bernadotte có những đe dọa nghiêm trọng đến quyền lợi của Israel trên cả hai điểm, và dường như Liên Hiệp Quốc sẽ cố gắng áp đặt những nhượng bộ đau đớn lên phía Israel.
Ben-Gurion biết rằng cách duy nhất để ngăn chặn một diễn tiến như thế là tiến hành ngay hành động quân sự để thiết lập tình thế “chuyện đã rồi”. Ông đã tìm thấy một cái cớ khi kẻ thù vi phạm lệnh ngừng bắn.
Vào ngày 26.9, thủ tướng trình bày kế hoạch cho chiến dịch quân sự táo bạo. Ông đề nghị tấn công liên quân Ả Rập và chiếm toàn bộ phần phía nam của Bờ Tây (Judea) từ Jerusalem đến giới tuyến phía bắc Negev. Ông đến cuộc họp Nội các để thuyết phục phê duyệt kế hoạch. Cái cớ của nó là việc liên quân phá hủy trạm bơm nước Latrun, làm mất nguồn cung cấp nước của Jerusalem.
Video đang HOT
Vào ngày 15.10, đoàn xe vận chuyển khởi đầu cho Chiến dịch Hủy diệt số 10 khởi hành đi Negev, và quân Ai Cập bắt buộc phải diễn đúng vai trò đã phân cho họ là tấn công đoàn xe dưới sự chứng kiến của các quan sát viên Liên Hiệp Quốc. Quân đội ngay lập tức hành động trong chiến dịch đầu tiên mà người Israel huy động đầy đủ mọi năng lực cho một đợt tấn công quân sự trọn vẹn. Binh lực được triển khai ở cấp sư đoàn, và bắt đầu bằng cuộc tấn công trên không vào sân bay Al Arish.
Vào ngày 19.10, trong khi chiến cuộc huy động tổng lực, Hội đồng Bảo an nhóm họp và kêu gọi một cuộc ngừng bắn ngay lập tức. Ben-Gurion trì hoãn câu trả lời từ phía Israel, tranh thủ một hay hai ngày nữa để hoàn tất chiến dịch. Trong khi đó, trong một trận đánh đầy ác mộng, các lực lượng của Israel đã thành công trong việc mở được đường về Negev, nơi đã bị cô lập suốt tám tháng. Trong một cuộc tấn công bất ngờ trong đêm và kéo dài đến sáng hôm sau, họ đã giành lại Beershebar từ tay người Ai Cập. Thành công này có tác động to lớn, ở Israel và các nước ngoài, và xa hơn là làm suy sụp tinh thần của quân đội Ai Cập. Đến trưa thì tiếng súng ngừng.
Vào ngày 13.1 (năm 1949 – Thanh Niên), hội nghị đình chiến với Ai Cập khai mạc ở khách sạn Roses ở Rohdes [...] Hiệp định Đình chiến được ký kết với Ai Cập vào cuối tháng 2.
Vào ngày 3.4, Hiệp định Đình chiến với Transjordan được ký kết. Mười ngày trước đó, một thỏa thuận đình chiến cũng đã đạt được với Li Băng, và thỏa thuận với Syria được ký vào ngày 20.7. Cuộc chiến Độc lập đã đi đến lúc kết thúc.
Theo TNO
Vũ khí Mỹ trong chiến tranh VN - Kỳ 3: 'Đồ chơi' của lục quân
Lầu Năm Góc đã điều động nhiều xe tăng, xe bọc thép để đáp ứng nhu cầu của lực lượng lục quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Một chiếc AH-1 Cobra tác chiến tại Việt Nam - Ảnh: US Army
Nhắc đến xe chiến đấu của lục quân Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, nhiều người luôn nhớ dòng xe bọc thép M113 đầu tiên, bởi đây là mẫu xe được Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa đánh giá như một phương tiện chủ lực để thực thi học thuyết chiến tranh của mình. Dòng xe này dài khoảng 4,8 m, rộng khoảng 2,8 m, có lớp thép dày từ 12 - 38 mm, tùy phiên bản, có thể chở theo 11 người, chưa tính 2 người phụ trách điều khiển. Vận tốc tối đa trên bờ lên đến 67 km/giờ và vận tốc khi di chuyển trong nước đạt gần 6 km/giờ.
Tư liệu từ cuốn Vietnam Tracks: Armor in Battle 1945-75 của Simon Dunstan cho biết lô hàng 30 chiếc M113 đầu tiên đến Việt Nam vào ngày 30.3.1962. Kể từ đây, hàng ngàn chiếc M113 đã được Mỹ triển khai cho lục quân nước này cũng như cung cấp cho quân đội Việt Nam Cộng hòa tại chiến trường Việt Nam. Dòng xe này được chia làm nhiều phiên bản để đáp ứng các nhiệm vụ khác nhau. Không chỉ vận chuyển binh sĩ và hàng hóa, M113 còn được trang bị nhiều loại pháo 40 mm cùng các loại súng máy có cỡ đạn lên đến 12,7 mm. Ngoài ra, một số phiên bản còn sở hữu súng chống tăng. Từ đầu thập niên 1960, M113 dần trở thành vũ khí chủ lực để binh sĩ Mỹ và Việt Nam Cộng hòa sử dụng trong hầu hết các vụ đụng độ.
Một vũ khí quan trọng của lục quân Mỹ và cũng rất quen thuộc với người dân Việt Nam hồi thập niên 1960 - 1970 là dòng xe tăng tấn công chủ lực M48 Patton và xe tăng hạng nhẹ M41 Walker Bulldog. Trong đó, loại M48 Patton nặng khoảng 45 tấn, có lớp giáp dày 120 mm và sở hữu loại pháo 90 mm cùng một số súng máy. Loại M41 Walker Bulldog nặng khoảng 23,5 tấn, có lớp giáp dày 38 mm, trang bị pháo 79 mm cùng nhiều loại súng máy.
Tổng thống Johnson dùng "jeep Việt Nam" để thăm binh sĩ Mỹ ở Cam Ranh vào tháng 10.1966 - Ảnh: Olive-drab.com
"Jeep Việt Nam"
Trong hàng loạt khí tài của quân đội Mỹ, có những loại khí tài được dùng phổ biến ở chiến trường Việt Nam đến mức hai chữ Việt Nam được gắn liền trong tên gọi. Điển hình như dòng xe M151 MUTT mà nhiều người chơi xe lẫn quân nhân Mỹ vẫn quen gọi là "jeep Việt Nam" (Vietnam jeep). MUTT được viết tắt từ cụm "Military Utility Tactical Truck" từng được dịch là "Vận xa chiến thuật". Năm 1951, hãng Ford nhận hợp đồng thiết kế mẫu xe vận tải chiến thuật để đáp ứng nhu cầu mới cho lục quân Mỹ thời hậu Thế chiến 2. M151 MUTT ra đời từ hợp đồng trên. Mặc dù được Ford thiết kế nhưng về sau, 2 hãng xe khác là AM General và Kaiser cũng được nhận hợp đồng sản xuất. Vì thế, có đến 3 hãng tham gia sản xuất dòng xe này.
Năm 1959, M151 chính thức được trang bị cho lục quân Mỹ và Lầu Năm Góc chọn Việt Nam là nơi triển khai đầu tiên. Đó là một trong các lý do quan trọng khiến M151 có tên "jeep Việt Nam". Theo cuốn HMMWV Humvee 1980-2005: US Army tactical vehicle của Steven Zaloga, từ thập niên 1960, lục quân Mỹ sử dụng M151 MUTT rất phổ biến trong chiến tranh Việt Nam với nhiều công năng khác nhau như: tuần tra, xe chuyên dụng cho các cấp chỉ huy, cứu thương, xe chiến đấu... Để chiến đấu, "Vietnam jeep" có thể được trang bị thêm súng máy và một số vũ khí khác. Đặc biệt, trong chuyến thăm căn cứ quân sự Mỹ ở Cam Ranh vào ngày 26.10.1966, Tổng thống Mỹ Lyndon B.Johnson cũng dùng "jeep Việt Nam" làm phương tiện đi ủy lạo binh sĩ.
Đến năm 1980, xe M151 bị ngưng sản xuất nhưng tới nay vẫn trở thành món hàng mà dân chơi xe ở nhiều nước tìm mua.
Xe bọc thép M113 trên đường phố Sài Gòn vào tháng 11.1963
Khí tài không thể thiếu
Bên cạnh xe tăng và xe bọc thép, lục quân và cả thủy quân lục chiến Mỹ còn sử dụng máy bay trực thăng để vận tải, chuyển quân và tác chiến.
Về máy bay trực thăng chiến đấu, dòng AH-1 Cobra gần như được xem là loại nổi bật nhất của lục quân Mỹ tại Việt Nam. Theo cuốn US Army AH-1 Cobra Units in Vietnam của chuyên gia Jonathan Bernstein, ngày 29.8.1967, một nhóm 50 người do trung tá Paul Anderson dẫn đầu đã đến căn cứ không quân Biên Hòa để bắt đầu chương trình triển khai trực thăng chiến đấu AH-1 Cobra tại Việt Nam. Dòng máy bay này ra đời trước đó chưa bao lâu và chỉ mới được thử nghiệm chuyến đầu tiên vào tháng 9.1965. AH-1 Cobra được điều khiển bởi 2 phi công, có vận tốc tối đa khoảng 270 km/giờ, tầm bay 510 km, trần bay 3.700 m, được trang bị 1 pháo 20 mm và có thể mang theo các loại rốc két và tên lửa chống xe tăng. Tổng cộng, hơn 1.000 chiếc AH-1 Cobra được điều động đến Việt Nam từ năm 1967 - 1973 và hàng trăm chiếc trong số đó bị bắn rơi hoặc bị phá hủy do tai nạn.
Trong khi đó, dòng CH-47 Chinook được xem là biểu tượng cho lực lượng máy bay vận tải mà Mỹ sử dụng tại chiến trường Việt Nam. Theo cuốn Vietnam Choppers: Helicopters in Battle 1950-1975 của chuyên gia Simon Dunstan, những chiếc CH-47 Chinook đầu tiên đến Việt Nam vào năm 1965. Dòng máy bay này có vận tốc tối đa khoảng 300 km/giờ, tầm bay 700 km, có thể chở theo 12 tấn hàng hóa và thường chỉ được trang bị một súng máy để tự bảo vệ. Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã triển khai khoảng 700 chiếc tại miền Nam Việt Nam. Chỉ trong 2 năm đầu tiên có mặt, loại trực thăng vận tải này thực hiện khoảng 238.000 chuyến vận chuyển, chở hơn 610.000 tấn hàng hóa và 671.000 lượt người.
Chiến xa hoán cải
Một "chiến xa hoán cải" được lưu giữ tại Bảo tàng vận tải lục quân ở bang Virginia (Mỹ) - Ảnh: US Army
Theo tài liệu do lực lượng lục quân Mỹ lưu trữ, ngoại trừ các xe chiến đấu được cung cấp bởi Lầu Năm Góc, quân đội nước này tại Việt Nam còn tự hoán cải một số loại xe vận tải trở thành chiến xa. Điển hình là việc "tự chế" một mẫu xe tải vũ trang dựa trên dòng xe tải 2,5 tấn. Vào năm 1967, khi vận tải hàng hóa và binh sĩ qua An Khê và Pleiku ở vùng Tây nguyên, lực lượng Mỹ thường xuyên chịu thương vong nặng nề trước chiến thuật mai phục tấn công của binh sĩ Việt Nam. Trong khi đó, nhiều chuyến vận chuyển không thể điều động xe tăng hay xe bọc thép mà chỉ được bảo vệ bởi các xe jeep. Vì vậy, các sĩ quan lục quân Mỹ tại Việt Nam đã tổ chức chỉnh sửa tăng cường lớp thép và trang bị thêm nhiều súng máy, pháo cỡ nhỏ cho loại xe tải 2,5 tấn. Kể từ đó, dòng xe tải vũ trang này ra đời. Loại xe này không chính thức được Lầu Năm Góc thừa nhận nhưng một số chỉ huy lục quân Mỹ tại Việt Nam vẫn âm thầm khuyến khích cấp dưới hoán cải.
Theo TNO
Những cổ vật vô giá chờ ngày hồi hương Sau chiến tranh thế giới, rất nhiều cổ vật có giá trị ở các nước châu Á hay Trung Đông đã bị các nước phương Tây mang về như một món chiến lợi phẩm. Tuy nhiên việc đưa những hiện vật này trở về nơi xuất xứ là vô cùng khó khăn bởi chúng đã qua tay nhiều người, việc xác định quyền...