Bàu Dòi, không còn nữa!
Đây là một địa danh lâu đời thuộc địa bàn thôn Hiệp An, xã Tân Tiến (La Gi) ngày nay. Bàu Dòi nằm xa khuất xứ đạo Hiệp An, nép mình bên trong động cát cao nối với rừng dương phòng hộ Sở Dương 2 được trồng từ khoảng năm 1938 dưới thời Pháp thuộc.
Ngày trước, đầm nước Bàu Dòi như một khu rừng kỳ bí vì vào mùa mưa nước từ nguồn đổ xuống, cây rừng dày đặc chìm ngập trong nước mênh mông, nhiều nhất vẫn là cây tràm… Đáy hồ đầy rễ cỏ năng, người dân đồn đãi là đất không chân.Trong số các bàu lân cận như Bàu Thông, Bàu Cái, Bàu Giêng, Bàu Nu thì Bàu Dòi có diện tích lớn gấp nhiều lần và nguồn nước tự nhiên khá ổn định. Năm 1993, có một hiện tượng khác thường khi nhiều người từ chợ La Gi kéo nhau lên cùng xe tải nhỏ, xe máy băng ruộng tràn vào khu bàu để nhổ cây mai chiếu thủy về làm bonsai, kiểng vườn. Cơ quan lâm nghiệp phải ngăn chặn vì chỉ mấy ngày thôi mà cây cối ở đây bị dẫm nát, xác xơ. Thực ra giống mai chiếu thủy ở đây cũng có cánh màu trắng, hương thơm nhưng thân cây lớn, bộ rễ đẹp mê hồn khó mà tìm thấy ở mai chiếu thủy vườn nhà. Người dân địa phương còn coi đây là vựa cá đồng trời cho, nhiều nhất là cá trê, cá lóc, cá rô… Địa danh Bàu Dòi qua lời truyền khẩu, vì bàu nước rất nhiều cá nên cũng là nơi chim muông về đây trú ngụ bắt cá kiếm mồi. Khi mùa nắng hạn, mực nước rút xuống để trơ ra những ao tù xung quanh bị cạn khô, cá chết sình thối sinh ra bọ dòi lúc nhúc. Từ cách đặt tên của người dân địa phương theo hiện tượng sự vật làm nên địa danh Bàu Dòi.
Bàu Dòi trở thành điểm khu trú cuối cùng của các dòng suối do bị chắn ngang là động cát cao nên độ thẩm thấu thoát ra biển không đáng kể. Cũng từ đặc điểm này mà tạo nên địa danh Nước Nhĩ ở bờ biển La Gi, phía đoạn đầu của Đồi Dương (Bình Tân). Giếng Nước Nhỉ là cách gọi của người dân vùng biển nơi này từ thuở xưa lúc chưa có lộ giao thông, người dân La Gi chỉ đi dọc bờ biển lên Tam Tân, Phong Điền hoặc ra Phan Thiết và thường nghỉ chân tại đây để tắm táp rồi lấy nước ngọt mang theo. Thật kỳ diệu khi mạch nước ngọt ẩn mình dưới những lùm dứa xanh chỉ cách mép sóng biển mặn chừng vài chục mét.Trước năm 1945, những hướng đạo sinh của Hàm Tân đã chở gạch đá đến xây làm cái giếng rồi đặt tên là giếng Nguồn Chung. Về địa hình thì vị trí mạch nước ngọt này nằm lệch với Bàu Dòi khoảng gần cây số, cách nhau dãy động cát cao. Đây chính là nguồn nước từ Bàu Dòi thẩm thấu qua động cát và trút dần về phía trũng thấp ra biển.
Con đường du lịch ven biển từ Đồi Dương (Bình Tân) nối với ngảnh Tam Tân (xã Tân Tiến) dài 7 km vừa hoàn thành cuối năm 2015, chạy ngang Bàu Dòi. Bây giờ mặt bàu đã bị thu nhỏ lại chỉ còn khoảng 4 ha. Nhưng bên cạnh đó là ao tôm, đất nền vườn và phía chân động lưa thưa những cây chồi còn sót lại. Hỏi ra là các hộ dân tuy ở nơi khác nhưng đã có đất khu vực này đang làm sổ đỏ. Nếu tận mắt thấy bản đồ quy hoạch đường giao thông du lịch của huyện Hàm Tân được lập từ năm 2001, trong đó có đoạn đường qua Bàu Dòi. Khi đó gần như còn nguyên vẹn cảnh quan sinh thái với bàu nước trong xanh mới thấy sự vô tình của những nhà quy hoạch và trách nhiệm trong công tác quản lý đất đai của địa phương. Đã biết làm đường phục vụ du lịch tất nhiên phải nhìn ra tổng quan tiềm năng du lịch, nhưng với một khu bàu đầy nước mênh mông, với một cánh rừng nguyên sinh như báu vật của thiên nhiên đặt bên bờ biển đẹp như thế mà không chút gì lay động để rồi nay trở thành một hồ nước đang bị chia năm xẻ bảy mới lạ lùng. Địa danh Bàu Dòi, trên thực tế không còn nữa cũng có nghĩa tự đánh mất đi một cảnh quan du lịch sinh thái quý giá ở La Gi.
Nghĩ về địa danh Ngảnh Tam Tân
Đó là một đoạn bờ biển có cảnh quan đẹp. Cách xa bờ khoảng 50m nổi lên một cụm đá lô nhô như đang khỏa mình với những làn sóng êm ả không ngớt dội vào.
|
Ngãnh Tam tân. Ảnh minh họa |
Không những với khách xa đến mà kể cả người địa phương vẫn đặt ra những câu hỏi về địa danh Ngảnh Tam Tân? Với người dân bản địa thì đã trở thành quen thuộc nhưng khi gợi lại mới thấy thật sự bồi hồi tưởng chừng đang trở về với vùng đất "địa linh" của người xưa thuở còn hoang sơ. Từ "ngảnh" ở đây là chỉ về một địa hình thiên nhiên rất đặc trưng. Nhưng với ngữ âm thường gặp khi nói về địa hình dọc dài vùng biển từ miền Bắc vào Nam chưa ở đâu có từ "ngảnh". Địa hình ghềnh, gành, mỏm, mỏ, mũi... là phần đất có đá từ bờ nhô ra sông, biển thì có nhưng "ngảnh" thì lại không. Kể cả trong sách Đại Nam nhất thống chí biên soạn từ giữa thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, khi viết về cảnh quan bờ biển này cũng với cách gọi thông thường: "Ngoài cửa tấn có ghềnh đá, gọi là mỏ Ma Ly..." tức tên gọi cửa sông Phan trổ ra biển (khu vực Ngảnh Tam Tân) ngày xưa. Tìm hiểu về cư dân vốn từ nhiều vùng miền tụ nghĩa sinh sống nơi này lập nên làng chài Tam Tân nằm tiếp giáp với cánh rừng dầu Bàu Thông, Đường Ván với bao chuyện kỳ bí, để rồi có thể liên hệ đến từ "ngảnh". Đây là một từ thuần Việt, do đọc trại từ "ngoảnh, nghển, ngẩn" (đồng âm đồng nghĩa) biểu thị trạng thái nhưng vì mô phỏng vào địa hình, thế đứng của một mỏm đá mà "ngảnh" đã trở thành địa danh. Nguyên sơ mỏm đá nằm trên phần đất liền lấn ra biển nhưng do quá trình bị thủy triều xâm thực tạo nên một "cù lao" nhỏ tách biệt. Vị trí mỏm đá tạo nên khúc gãy của bờ biển dài bởi mỏm đá xoay ngược về một hướng. Chim biển thường tụ về đây để phơi cánh dưới nắng trời và ríu rít tìm mồi nên mới có tên Mỏm đá chim là vậy. "Ngảnh" được coi là "tiểu loại địa danh" trở thành một thành tố của địa danh hành chánh Tam Tân.
Do cách đọc trại của người dân bản địa thường thấy qua các địa danh trong vùng như Phù Trì thành Phò Trì (làng Chăm Tân Thắng), Bà Đặng thành Tà Đặng (ngọn núi nhỏ Tân Thành), Khê thành Kê (Kê Gà) hoặc tương tự từ cách phát âm như Loáng choáng thành Láng cháng, Vồng thành Giồng (Giồng Trôm)... cho nên chữ "ngảnh" cũng xuất phát từ cách phát âm của từ "ngoảnh, nghển" là vậy. Ở Bình Thuận, với các đồi cát cao ven biển đều được gọi đó là "động", không phải theo nghĩa là hang sâu trong núi đá mà do bị chệch âm, đọc từ "đụn" (đụn cát, đụn đất, đụn rơm...) mà ra.
Địa danh Tam Tân là tên của một làng biển ngày xưa, nay chỉ là một thôn của xã Tân Tiến có bờ biển Ngảnh Tam Tân. Theo tổ chức hành chánh xưa làng được gọi chung cho phường, thôn , xã, giáp. Từ khoảng giữa thế kỷ 19, vùng đất phía Nam Bình Thuận chỉ rải rác một số làng thuộc tổng Đức Thắng, huyện Tuy Định, phủ Hàm Thuận. Trong đó có Tân Hải thôn, Tân Nguyên phường (còn gọi là Tân Ngươn, Tân Hoàng) và Tân Quý phường. Sau đó hình thành làng Tam Tân bằng sự sáp nhập ba làng này. Địa danh hành chánh Tam Tân được ghép từ 3 chữ Tân đứng đầu của ba tên làng trước đó. Về diện tích tự nhiên theo mô tả trong địa bạ xưa bao gồm phần đất các xã Tân Hải, Tân Tiến, Tân Bình ngày nay. Khoảng từ năm 1895, thời vua Thành Thái, phần đất ấp Liên Trì thuộc xã Tam Tân được cắt ra và lập nên thôn Công giáo Tân Lý, là xứ đạo đầu tiên ở La Gi.
Để có được khái niệm về một ngữ âm "Ngảnh" trong địa danh "Ngảnh Tam Tân" của một vùng đất hẻo lánh từ hơn trăm năm, quả thật khó tìm thấy trên di bản chính thức mà chỉ dựa trên cơ sở địa bạ sở hữu của hộ gia đình, tôn giáo ở địa phương. Do đó người viết cũng chưa dám xác định giá trị lịch sử của một địa danh có tính cá biệt này, nhưng có thể coi đây là một tiền đề cho việc nghiên cứu tiếp theo.
Thêm 1 ca tử vong nghi do bệnh dại tại La Gi Sáng 25/4, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh cho biết: Bình Thuận ghi nhận 1 ca tử vong nghi do bệnh dại ở phường Phước Hội (La Gi). Theo kết quả điều tra yếu tố dịch tễ, ngày 20/4/2024, bệnh nhân nam, sinh năm 1994, khởi phát triệu chứng mệt mỏi, tê tay, chân, sợ gió, sợ nước. Đến ngày 22/4, bệnh...