‘Bắt tay’ với doanh nghiệp FDI để kết nối sản xuất linh phụ kiện trong nước
Thông tin từ Bộ Công Thương cho hay, năm 2022 sẽ phối hợp chặt chẽ với một số doanh nghiệp FDI đa quốc gia như Samsung, Toyota… tăng cường tìm kiếm, kết nối các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước đủ khả năng sản xuất thay thế nguồn nhập khẩu trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn.
Sản xuất linh kiện tại Nhà máy ô tô Huydai Thành Công ở Ninh Bình. Ảnh minh họa: Báo ảnh Việt Nam
Năm 2022, để góp phần đạt tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước tăng từ 6 – 6,5%, ngành công thương phấn đấu đạt mục tiêu IIP tăng khoảng 7 – 8%.
Bộ Công Thương xác định sẽ triển khai hiệu quả các đề án hỗ trợ ngành công nghiệp hỗ trợ theo Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đã phê duyệt trong một số ngành trọng điểm như: công nghiệp ô tô, điện tử, dệt may và da giày; tập trung vào khâu tổ chức kết nối và hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước tham gia được vào chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài nhằm khai thác hiệu quả quá trình hội nhập.
“Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với một số doanh nghiệp FDI đa quốc gia (như Samsung, Toyota…) tăng cường tìm kiếm, kết nối các doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu, linh phụ kiện trong nước đủ khả năng sản xuất thay thế nguồn nhập khẩu trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn”, ông Trần Quốc Khánh khẳng định.
Theo báo cáo tình hình sản xuất công nghiệp năm 2021 Bộ Công Thương vừa công bố, năm 2021 sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn duy trì và giữ được nhịp độ tăng trưởng tích cực.
Trong mức tăng trưởng của toàn nền kinh tế năm 2021, sản xuất công nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khá, giá trị tăng thêm ngành công nghiệp tăng 4,82%, cao hơn so với cùng kỳ năm trước và cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Nhóm ngành công nghiệp chế biến chế tạo phát triển tích cực. Các ngành công nghiệp chủ lực (như điện tử, dệt may, da giày, đồ gỗ…) tăng trưởng ở mức khá, là yếu tố chính đóng góp vào phát triển của ngành công nghiệp Việt Nam.
Đáng chú ý, phát triển công nghiệp ở các địa phương đã nỗ lực vượt qua khó khăn trong đại dịch: có 48 địa phương có chỉ số IIP tăng, chỉ có 15 địa phương có chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) giảm so với năm 2020; trong đó, tăng cao nhất các tỉnh gồm: Ninh Thuận (24,6%), Đắk Lắk (23,8%), Gia Lai (20,5%), Hải Phòng (18,2%), Bình Phước (17,8%)…
Video đang HOT
Bên cạnh kết quả đạt được, phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2021, triển khai nhiệm vụ năm 2022 ngành công thương ngày hôm nay 9/1/2022, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh đánh giá, sản xuất công nghiệp vẫn còn hạn chế nhất định.
Cụ thể, hoạt động sản xuất công nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn nhiều so với năm 2020 do dịch COVID-19 đã lây lan, xâm nhập các khu công nghiệp, khu chế xuất đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng chung của ngành.
Các doanh nghiệp sản xuất trong nước chủ yếu có quy mô vừa, nhỏ, sức cạnh tranh còn thấp gặp rất nhiều khó khăn dưới tác động của dịch bệnh COVID-19 kéo dài. Chi phí sản xuất tăng cao do giá nguyên liệu đầu vào tăng, chi phí vận chuyển, logistics tăng và phát sinh thêm chi phí phòng, chống dịch bệnh khiến cho các doanh nghiệp khó khăn lại càng khó khăn.
Nhiều doanh nghiệp bị gián đoạn sản xuất, giảm đơn hàng, thiếu hụt lao động, doanh thu giảm mạnh.
Bên cạnh đó, một số địa phương không duy trì được tăng trưởng công nghiệp như: Tp. Hồ Chí Minh (giảm 14,3%), Cần Thơ (giảm 10,1%), Trà Vinh (giảm 9,5%), Đồng Tháp (giảm 8%)…
“Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp xuất khẩu trong nước dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp, giá trị gia tăng tạo ra trong nước chưa đạt như mong muốn”, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh nói.
Vấn đề tiếp theo được lãnh đạo Bộ Công Thương đề cập tới là, năng lực sản xuất công nghiệp chậm được cải thiện, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp có tính nền tảng, then chốt dẫn đến ta vẫn tiếp tục nhập khẩu lớn máy móc thiết bị, phụ tùng và nguyên vật liệu cho sản xuất các ngành công nghiệp trong nước.
Liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên chưa thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành. “Chưa có sự tham gia mạnh của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu”, ông Khánh khẳng định.
Doanh nghiệp Việt và hành trình giữ vững chuỗi cung ứng trong dịch COVID-19
Chủ động, linh hoạt ứng phó với từng diễn biến của dịch bệnh, duy trì mối liên kết chặt chẽ với người lao động, tính toán tăng tính tự chủ, đặc biệt là nguồn cung nguyên liệu... là các giải pháp căn cơ mà nhiều doanh nghiệp đã thực hiện để đảm bảo chuỗi cung ứng, vượt qua khó khăn trong dịch COVID-19.
Nhiều doanh nghiệp lấy người lao động làm trung tâm, động lực để thúc đẩy sản xuất. Ảnh: TTXVN.
Sáng tạo trong sản xuất và tăng tự chủ nguyên liệu
Làn sóng dịch COVID-19 bùng phát lần thứ 4 đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của nhiều doanh nghiệp, và Tổng Công ty cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) cũng không ngoại lệ. Ông Bennet Neo, Tổng Giám đốc Sabeco cho biết, vào giai đoạn đỉnh dịch, Sabeco đã thực hiện "3 tại chỗ". Hầu hết nhân viên đều làm việc tại nhà. Các cuộc họp để cập nhật tình hình COVID-19 được tổ chức hàng ngày, đảm bảo sự an toàn, tinh thần, sức khoẻ của hơn 13.000 nhân viên.
Đến nay, khoảng 72% nhân viên của Sabeco đã được tiêm đủ 2 mũi vaccine phòng COVID-19 và 82% đã tiêm 1 mũi. "Chúng tôi đảm bảo giữ công việc của nhân viên, không ai bị sa thải cũng như không cắt giảm lương. Trong giai đoạn khó khăn này, việc sản xuất, chuỗi cung ứng vẫn liên tục, suôn sẻ", ông Bennet Neo nói.
Đại diện Sabeco chia sẻ thêm, Sabeco có hệ thống 26 nhà máy trên khắp Việt Nam, trong đó có 60 nhà kho được hỗ trợ bởi đội ngũ xe tải chở hàng chuyên nghiệp. Ngoài ra, Sabeco cũng sử dụng rất nhiều hệ thống vận chuyển bằng xe lửa cũng như tàu thuỷ." Chính sự đa dạng về nhà máy bia, kho hàng đã giúp doanh nghiệp giảm thiểu rủi đo gián đoạn chuỗi cung ứng do tác động của dịch COVI-19", Tổng giám đốc Sabeco nói.
Cũng là ngành chịu tác động mạnh mẽ do dịch COVID-19, nhưng dự kiến cả năm 2021, xuất khẩu dệt may Việt Nam có thể đạt 39 tỷ USD, tăng 11,2% so với năm 2020.
Ông Vương Đức Anh, Chánh văn phòng Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) cho biết, 9 tháng năm 2021, Tập đoàn đã vượt 35% kế hoạch năm và phục hồi về mức trước khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát năm 2019, lợi nhuận năm 2021 dự kiến cao gấp trên 2 lần năm 2020 và có thể cao hơn nếu vừa qua khu vực may phía Nam của Tập đoàn không bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19. Bù lại, năm nay lĩnh vực sản xuất nguyên liệu đóng góp 60% hiệu quả của Tập đoàn.
"Ngay khi có chủ trương sản xuất "3 tại chỗ" và "một cung đường hai điểm đến" vào tháng 5/2021, Tập đoàn đã đánh giá khả năng thực hiện, qua đó xác định ngành may về cơ bản không thể áp dụng 3 tại chỗ do công nhân đông, cơ sở vật chất không đảm bảo an toàn khi bố trí ở lại, nếu bố trí ít thì cũng không giải quyết được đơn hàng. Do đó, tập đoàn tập trung vào ngành sợi - dệt có thể đáp ứng sản xuất "3 tại chỗ" đảm bảo được trên 80% sản lượng so với bình thường", ông Vương Đức Anh cho hay.
Cùng với đó, lãnh đạo các doanh nghiệp của Tập đoàn đều xây dựng các phương án kinh doanh theo kịch bản bị cách ly theo chỉ thị 16, chỉ thị 15... Các phương án kinh doanh lựa chọn ưu tiên khách hàng, đơn hàng cần được bảo vệ, tổ chức các đơn hàng ngành sợi với sản lượng tối đa do ngành sợi đang có hiệu quả. Tổ chức cụm các doanh nghiệp sản xuất cùng loại mặt hàng để kịp thời chi viện cho nhau khi có mắt xích bị cách ly.
Lấy người lao động làm trung tâm
Ông Bùi Thế Chuyên, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Hoá chất Việt Nam (Vinachem) cho biết, dịch COVID-19 tác động tới các doanh nghiệp của Tập đoàn khá lớn. Cả tập đoàn có 13 doanh nghiệp tổ chức sản xuất "3 tại chỗ", một cung đường hai điểm đến... Cùng với đó, các doanh nghiệp đều thành lập các Tổ công tác phục hồi sản xuất do người đứng đầu doanh nghiệp phụ trách để xây dựng và tổ chức thực hiện phương án sản xuất kinh doanh để đảm bảo cung ứng các hàng hóa không để thiếu hàng gây biến động thị trường đặc biệt là các đơn vị sản xuất nguyên liệu vật tư phòng chống dịch như nhóm sản phẩm hóa chất cơ bản, chất tẩy rửa, thuốc sát trùng, oxy... Bám sát sự chỉ đạo của các bộ ngành, cơ quan có thẩm quyền để tích cực tham gia điều tiết, bình ổn thị trường đối với các mặt hàng của Tập đoàn, đặc biệt là phân bón phục vụ nông nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp cũng tổ chức lại thị trường, lập lại chuỗi cung ứng bị đứt gãy do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.
"Tính đến nay, tập đoàn đã có hơn 15.000 người lao động của các đơn vị thuộc tập đoàn được tiêm vaccine phòng chống dịch bệnh COVID-19, điều này giúp ổn định tâm lý của cán bộ công nhân viên, yên tâm tổ chức sản xuất cũng như tăng cường hiệu quả trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19", ông Bùi Thế Chuyên cho hay.
Nhờ vậy, kết quả thực hiện sản xuất kinh doanh của toàn Tập đoàn Hóa chất Việt Nam năm 2021 duy trì được tăng trưởng khả quan. Giá trị sản xuất công nghiệp ước thực hiện đạt 47.180 tỷ đồng, tăng 25,5% so với thực hiện năm 2020, bằng 111,9% so với kế hoạch; Doanh thu ước thực hiện đạt 49.578 tỷ đồng tăng 20,4% so với thực hiện năm 2020, bằng 112,5% so với kế hoạch; Lợi nhuận ước thực hiện đạt 859,1 tỷ đồng.
Còn với ngành cần nhiều lao động như dệt may, ông Vương Đức Anh cho biết, Vinatex duy trì được đà phát triển là nhờ ưu tiên bảo toàn lực lượng lao động, duy trì vị trí trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu.
Một số đơn vị thuộc Vinatex ở phía Nam có tới 35.000 lao động, trong giai đoạn dịch diễn biến căng thẳng vào quý 3/2021, việc áp dụng "3 tại chỗ" khá khó khăn. Nhiều doanh nghiệp đã phải quyết định cho ngừng việc hẳn để đảm bảo an toàn, sau đó mới quay trở lại sản xuất.
"Nhờ các doanh nghiệp duy trì liên kết chặt chẽ với người lao động, hiện tại, tỷ lệ huy động lao động quay trở lại làm việc của toàn Tập đoàn đã đạt 95%. Tỷ lệ tiêm vaccine mũi 1 của toàn Vinatex đạt 90%, mũi 2 đạt 85%. Đây là những điểm hỗ trợ rất quan trọng giúp Tập đoàn đạt kết quả sản xuất kinh doanh tốt năm nay", ông Vương Đức Anh cho hay.
Ông Ngô Khải Hoàn, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, hoạt động sản xuất công nghiệp trong tháng 10/2021 và tháng 11/2021 đã có những dấu hiệu phục hồi so với tháng trước cũng như tăng trưởng so với cùng kỳ năm 2020.
Đặc biệt, các ngành hàng xuất khẩu chủ lực như dệt may, da giày, điện tử được các hiệp hội, ngành hàng, doanh nghiệp dự báo sẽ có kim ngạch xuất khẩu trong năm 2021 tăng khá cao so với năm 2020 khi các doanh nghiệp dần được tiếp cận trở lại với nhiều đơn hàng quốc tế lớn.
Quý III, gần 78% doanh nghiệp chế biến, chế tạo nhận định sẽ hoạt động ổn định, tốt lên Tổng cục Thống kê cho biết, theo kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, dự kiến quý III/2021, có 39,2% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 38,6% doanh nghiệp cho rằng sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 22,2% số doanh nghiệp dự báo khó khăn...