Bảo hiểm y tế chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân bền vững
Theo ông Phạm Lương Sơn, Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam, qua 6 năm thực hiện Luật Bảo hiểm y tế (BHYT) sửa đổi, bổ sung đã tiếp tục khẳng định rõ nét, cùng với ngân sách Nhà nước, quỹ BHYT là nguồn tài chính công đóng góp đáng kể cho việc khám chữa bệnh (KCB) của người tham gia BHYT, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân và đảm bảo an sinh xã hội.
Hướng tới phát triển một nền BHYT bền vững
Ngày 13/6/2014, Quốc hội đã ban hành Luật số 46/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về BHYT và tác động tích cực đến quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHYT.
Qua 6 năm tổ chức thực hiện Luật BHYT sửa đổi, bổ sung dù vẫn còn bất cập, vướng mắc nhưng thông qua tổng kết, phân tích, đánh giá kết quả thực hiện, ngành BHXH Việt Nam có cơ sở để tiếp tục đề xuất sửa đổi Luật BHYT cho phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHYT, cũng như cân đối thu – chi để hướng tới phát triển một nền BHYT bền vững, góp phần củng cố vững chắc hơn nữa công tác chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Cán bộ Bảo hiểm xã hội tỉnh Đồng Tháp đến nhà tuyên truyền người dân tham gia bảo hiểm xã hội.
Sau 6 năm triển khai thực hiện Luật BHYT sửa đổi, bổ sung, ngành BHXH Việt Nam đã tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình triển khai Luật BHYT, trong đó có một số kết quả nổi bật như: Tỷ lệ tham gia BHYT đạt hơn 90%, vượt chỉ tiêu của Thủ tướng Chính phủ giao. Theo quy định của Luật BHYT sửa đổi, bổ sung, BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc được áp dụng để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện, mọi đối tượng được quy định trong Luật này đều có trách nhiệm tham gia BHYT. Có thể khẳng định, việc tham gia BHYT vừa là quyền và cũng là nghĩa vụ của mọi công dân Việt Nam.
Số người tham gia BHYT tăng trưởng ấn tượng qua các năm, so với năm 2015 số người tham gia BHYT năm 2016 tăng nhiều nhất tới 11%; năm 2015 và 2017 mỗi năm tăng 6-7%; giai đoạn 2018-2020 duy trì mức tăng trên dưới 3% mỗi năm.
Tính đến ngày 31/12/2020, số người tham gia BHYT là 87,97 triệu người, tăng 23,37 triệu người so với năm 2014 (tương ứng tăng 36%), đạt tỷ lệ bao phủ BHYT 90,85% dân số, vượt 0,15% so với chỉ tiêu BHYT của Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28/6/2016; về đích trước thời hạn 4 năm theo mục tiêu Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, theo đó mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ bao phủ BHYT ở nước ta là 80%.
Video đang HOT
Đây là tiền đề để cả nước phấn đấu sớm đạt được mục tiêu đến năm 2025 có 95% dân số tham gia BHYT, đến năm 2030 tỷ lệ tham gia BHYT là trên 95% như mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Quyền lợi của người tham gia BHYT được đảm bảo theo luật định
Thời gian qua, quy định về việc các cơ sở KCB không phân biệt công hay tư nếu đủ điều kiện đều được ký hợp đồng KCB BHYT; tổ chức KCB BHYT ban đầu được ưu tiên thực hiện tại các cơ sở y tế tuyến huyện, xã đã góp phần phát triển mạng lưới cơ sở y tế tham gia KCB BHYT với số cơ sở KCB ký hợp đồng KCB BHYT duy trì trong 5 năm tăng từ 2.000 lên đến 2.400 cơ sở và hơn 10.000 trạm y tế xã ký hợp đồng KCB BHYT thông qua bệnh viện (BV) huyện, trung tâm y tế (TTYT) huyện, số cơ sở KCB tư nhân tham gia KCB BHYT cũng ngày càng gia tăng, gấp gần 4 lần so với năm 2010.
Người tham gia BHYT có thể lựa chọn nơi đăng ký KCB ban đầu tại tuyến huyện, tuyến xã phù hợp với nơi cư trú hoặc nơi làm việc, các quy định về KCB BHYT trái tuyến nhưng được hưởng quyền lợi như đúng tuyến, cũng như việc cải cách thủ tục hành chính, sử dụng thẻ BHYT để KCB trên ứng dụng VssID – BHXH số… đã tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHYT trong tiếp cận dịch vụ y tế (DVYT) do giảm thủ tục hành chính mỗi khi người bệnh phải chuyển tuyến, góp phần thuận lợi cho việc tiếp cận các DVYT của người có thẻ BHYT. Trong 5 năm (giai đoạn 2015-2019) đã có hơn 809 triệu lượt KCB được quỹ BHYT thanh toán, tần suất KCB bình quân duy trì ở mức 1,9 – 2,1 lần/người/năm.
Trong 5 năm kể từ khi thực hiện Luật BHYT sửa đổi, bổ sung, quỹ BHYT đã chi trả trên 130 nghìn tỷ cho các dịch vụ xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng, phẫu thuật thủ thuật, phục hồi chức năng, y học cổ truyền; chi hơn 151 nghìn tỷ tiền thuốc và gần 25 nghìn tỷ cho các loại vật tư y tế (VTYT) tính ngoài giá dịch vụ từ dây truyền, bơm kim tiêm đến các VTYT hiện đại như giá đỡ động mạch vành (stent), van tim nhân tạo, máy tạo nhịp tim…
Cũng trong 5 năm qua, quyền và lợi ích của người tham gia BHYT luôn được đảm bảo một cách tối ưu nhất. Kể từ năm 2016 đến nay, số chi KCB BHYT thường xuyên cao hơn quỹ KCB BHYT được sử dụng trong năm, tỷ lệ sử dụng quỹ KCB BHYT trong năm của năm 2016 là 112%; của năm 2017 là 123,1%; năm 2018 là 109,7%; năm 2019 là 119% và năm 2020 ước tính là 112%.
Đổi mới nhằm đảm bảo sử dụng quỹ BHYT hiệu quả
Từ tháng 6/2016, BHXH Việt Nam đã ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác giám định BHYT với việc đưa vào hoạt động Hệ thống thông tin giám định BHYT, thực hiện kết nối liên thông dữ liệu KCB của trên 12.280 cơ sở y tế từ tuyến xã đến Trung ương trên phạm vi toàn quốc.
Việc kết nối tất cả các cơ sở y tế với Hệ thống đã góp phần thay đổi quy trình KCB tại cơ sở y tế, giúp người bệnh giảm thời gian làm thủ tục khi đến KCB, cập nhật kịp thời các thay đổi về thông tin trên thẻ BHYT, đặc biệt là gia hạn thẻ BHYT ngay khi đang điều trị, các thông tin về quyền lợi được hưởng trong mỗi lần KCB được cung cấp cho người bệnh ngay khi ra viện.
Với các cơ sở KCB, Hệ thống đã cung cấp các chức năng giúp nhân viên y tế xác định chính xác thông tin, quyền lợi hưởng BHYT của người bệnh; cung cấp cho các bác sĩ lịch sử KCB và các chỉ định, kết quả điều trị trước đó của người bệnh. Đặc biệt, việc công khai, minh bạch thông tin thường xuyên cùng với những cảnh báo, phân tích của cơ quan BHXH về sự bất thường trong thanh toán BHYT giúp các cán bộ quản lý bệnh viện (BV) điều chỉnh, giảm những nội dung chi quá mức cần thiết.
Với cơ quan BHXH, Hệ thống đã cung cấp các chức năng theo dõi, hiển thị bằng các bản đồ, biểu đồ trực quan, các báo cáo được tự động cập nhật hàng ngày thông qua phần mềm giám sát giúp BHXH Việt Nam và BHXH các tỉnh có thông tin cập nhật, tổng quan, theo dõi tình hình sử dụng quỹ BHYT, thực hiện dự toán, đánh giá mức độ gia tăng tần suất KCB, chi phí ở từng tuyến, hạng BV và chi tiết đến từng cơ sở y tế, qua đó dễ dàng nhận định và phát hiện nhanh chóng các biến động, diễn biến giữa các kỳ, các tháng ở tất cả các cơ sở y tế; cảnh báo trục lợi từ người tham gia BHYT, cơ sở y tế và cập nhật các yêu cầu kiểm tra, giám sát từ Trung ương đến địa phương. Do đó đã kiểm tra, xử lý kịp thời các trường hợp thanh toán sai quy định; đồng thời, cũng kịp thời ngăn chặn các trường hợp lạm dụng BHYT.
Lợi ích từ việc tham gia bảo hiểm y tế
Sau 6 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung, cùng với ngân sách Nhà nước, Quỹ bảo hiểm y tế là nguồn tài chính công đóng góp đáng kể cho việc khám chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế, góp phần thực hiện mục tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân và đảm bảo an sinh xã hội.
Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế vượt chỉ tiêu được giao
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam: Số người tham gia bảo hiểm y tế tăng trưởng ấn tượng qua các năm. So với năm 2015, số người tham gia bảo hiểm y tế năm 2016 tăng nhiều nhất tới 11%, năm 2015 và 2017 mỗi năm tăng 6-7%, giai đoạn 2018-2020 duy trì mức tăng trên dưới 3% mỗi năm.
Từ 1/6/2021, người dân có thể sử dụng hình ảnh thẻ bảo hiểm y tế trên ứng dụng VssID để đăng ký khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Tính đến ngày 31/12/2020, số người tham gia bảo hiểm y tế là 87,97 triệu người, tăng 23,37 triệu người so với năm 2014 (tương ứng tăng 36%), đạt tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế 90,85% dân số, vượt 0,15% so với chỉ tiêu bảo hiểm y tế của Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28/6/2016; về đích trước thời hạn 4 năm theo mục tiêu Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, theo đó mục tiêu đến năm 2020 tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế ở nước ta là 80%.
Đây là tiền đề để cả nước phấn đấu sớm đạt được mục tiêu đến năm 2025 có 95% dân số tham gia bảo hiểm y tế, đến năm 2030 tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế là trên 95% như mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
Ông Phạm Lương Sơn - Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam cho biết: 5 tháng đầu năm 2021, mới có lĩnh vực bảo hiểm y tế là có số người tham gia bảo hiểm y tế tăng cao hơn so với cuối năm 2020. Có thể nói, đây là thành công trong việc thực hiện chính sách bảo hiểm y tế.
Điều đó thể hiện sự nỗ lực và linh hoạt của ngành Bảo hiểm xã hội trong vận động, chuyển đổi các nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm y tế phù hợp với thực tế, trong bối cảnh khó khăn do ảnh hưởng từ dịch bệnh kéo dài từ đầu năm 2020 đến nay, khiến số doanh nghiệp dừng hoạt động hoặc giải thể tăng cao, rất nhiều người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bị mất việc làm, tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...
Cũng theo ông Phạm Lương Sơn, khoảng 10% dân số còn lại chưa tham gia bảo hiểm y tế chủ yếu rơi vào nhóm tham gia bảo hiểm y tế theo hộ gia đình, nhóm được ngân sách Nhà nước hỗ trợ mức đóng và một phần của nhóm do người lao động và người sử dụng lao động đóng, gồm: Những người tự đóng và tự đóng một phần không có thu nhập ổn định, người cận nghèo, hộ gia đình nói chung và hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp và có mức sống trung bình; người thuộc nhóm 1 trốn đóng bảo hiểm y tế.
Quyền lợi của người tham gia được đảm bảo tốt hơn
Điểm nổi bật sau 6 năm triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung, mọi người dân đều tiếp cận được dịch vụ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế dễ dàng, thuận tiện. Số cơ sở khám chữa bệnh ký hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế duy trì trong 5 năm tăng từ 2.000 lên đến 2.400 cơ sở và hơn 10.000 trạm y tế xã ký hợp đồng khám chữa bệnh bảo hiểm y tế thông qua Bệnh viện huyện/trung tâm y tế huyện, số cơ sở khám chữa bệnh tư nhân tham gia khám chữa bệnh bảo hiểm y tế cũng ngày càng gia tăng, gấp gần 4 lần so với năm 2010.
Về quyền lợi, người tham gia bảo hiểm y tế có thể lựa chọn nơi đăng ký khám chữa bệnh ban đầu tại tuyến huyện, tuyến xã phù hợp với nơi cư trú hoặc nơi làm việc, các quy định về khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trái tuyến, nhưng được hưởng quyền lợi như đúng tuyến, cũng như việc cải cách thủ tục hành chính, sử dụng thẻ bảo hiểm y tế để khám chữa bệnh trên ứng dụng VssID - BHXH số... đã tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia bảo hiểm y tế trong tiếp cận dịch vụ y tế, góp phần thuận lợi cho việc tiếp cận các dịch vụ y tế của người có thẻ bảo hiểm y tế. Trong 5 năm (giai đoạn 2015-2019), đã có hơn 809 triệu lượt khám chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán, tần suất khám chữa bệnh bình quân duy trì ở mức 1,9 - 2,1 lần/người/năm.
Trong 5 năm kể từ khi thực hiện Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, bổ sung, Quỹ Bảo hiểm y tế đã chi trả trên 130 nghìn tỷ đồng cho các dịch vụ xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng, phẫu thuật thủ thuật, phục hồi chức năng, y học cổ truyền; chi hơn 151 nghìn tỷ đồng tiền thuốc và gần 25 nghìn tỷ đồng cho các loại vật tư y tế tính ngoài giá dịch vụ từ dây truyền, bơm kim tiêm đến các vật tư y tế hiện đại như giá đỡ động mạch vành (stent), van tim nhân tạo, máy tạo nhịp tim... Chi phí chi cho nhóm dịch vụ kỹ thuật của năm 2019 tăng 1,8 lần; của nhóm thuốc tăng 1,4 lần và của nhóm vật tư y tế tăng gấp 3 lần so với năm 2015.
Theo Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Phạm Lương Sơn, ghi nhận trong 5 năm qua, quyền và lợi ích của người tham gia bảo hiểm y tế luôn được đảm bảo một cách tối ưu nhất. Kể từ năm 2016 đến nay, số chi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế thường xuyên cao hơn quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế được sử dụng trong năm, tỷ lệ sử dụng quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế trong năm của năm 2016 là 112%, của năm 2017 là 123,1%, năm 2018 là 109,7%, năm 2019 là 119% và năm 2020 ước tính là 112%.
Điều kiện cộng thời gian công tác để nghỉ hưu Bảo hiểm Xã hội Việt Nam trả lời về điều kiện cộng thời gian công tác để nghỉ hưu đối với của cán bộ, công chức, viên chức, công nhân, quân nhân và công an nhân dân. Người lao động trong ngành dệt may. Ảnh: TTXVN Ông Nguyễn Văn Minh (Long An) công tác trong ngành công an từ năm 1979, do hoàn...