Bạo hành gia đình: Cha thường xuyên bỏ đói con, không cho ông bà tiếp xúc
Từ khi giành lại quyền nuôi con, người cha luôn chửi bé với bất cứ lý do gì và thường xuyên để bé nhịn đói, không cho ông bà nội tiếp xúc cháu.
Kính gửi: Báo Đời Sống & Pháp Luật!
Hiện tôi có một việc xin được tư vấn: Tôi có 1 đứa cháu gọi bằng cô, năm nay 10 tuổi. Từ lúc 2 tuổi cha mẹ đã ly dị, cháu sống với ba và ông bà nội, nhưng từ đó đến nay toàn bộ tiền nuôi bé từ sữa, quần áo, giày dép, tiền học… đều là do ông bà chu cấp bởi vì ba của bé không có nghề nghiệp.
Mẹ ruột của bé có nghĩa vụ trợ cấp mỗi tháng là 1.000.000VNĐ, hiện đã có chồng mới và 1 đứa con. Sau đó, ba của bé cũng có vợ khác và có với nhau 1 đứa con. Ba của bé chuyển đi nơi khác sống với vợ sau được khoảng 2 năm. Thời gian đó bé sống với ông bà nội.
Vào khoảng 2 năm trước vì lý do không hợp nên 2 vợ chồng lại chia tay, và hiện tại bây giờ 2 người đang làm thủ tục ly hôn. Ba của bé lại trở về nhà ông bà nội giành lại quyền nuôi con.
Nhưng từ thời đó đến nay ba của bé không được bình thường, thần kinh có vấn đề. Luôn chửi bé bất cứ lý do gì, không nghề nghiệp thu nhập ổn định, và thường xuyên để bé nhịn đói, không cho ông bà nội tiếp xúc cháu.
Từ 1 đứa trẻ năng động bây giờ bé chỉ sống nội tâm, không bạn bè, mỗi lần ba vui thì mới cho bé đi, con mỗi lần nổi khùng lên thì không cho đi và chửi không thương tiếc. Mỗi ngày phải nghe ba mắng nhiếc, chửi rủa đối với 1 đứa trẻ mới 10 tuổi là 1 điều không chấp nhận được. Thần kinh ba của bé có vấn đề mọi người khuyên nên đi khám bác sĩ để điều trị nhưng y không đồng ý. Với tình trạng như vậy tôi e rằng bé sẽ bị trầm cảm.
Tôi là cô ruột của cháu nhưng hiện tại đang sống ở Phần Lan, vợ chồng tôi hiện chưa có con nên có ý định nhận bé làm con nuôi để lo lắng cho bé. Vài lần tôi có đề cập chuyện này với ba của bé nhưng bị từ chối. Nhưng mẹ của bé thì đồng ý vì điều kiện gia đình nên mẹ bé chưa có khả năng chăm sóc cho bé.
Vậy cho tôi hỏi nếu tôi muốn nhận bé làm con nuôi thì thủ tục như thế nào? Trường hợp nếu ba bé không đồng ý tôi có thể tiếp tục tiến hành làm hồ sơ được không? Và ông bà nội có thể giành lại nuôi dưỡng và cấp dưỡng cháu được không?
Vu Nguyen
Cha bạo hành con: Thường xuyên bỏ đói con, không cho ông bà tiếp xúc – Ảnh minh họa
Xin được tư vấn cho bạn:
Thủ tục nhận con nuôi
Điểu kiện về người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi
Tại Điều 14, Luật Nuôi con nuôi quy định người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
- Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;
- Có tư cách đạo đức tốt.
Những người sau đây không được nhận con nuôi:
- Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
- Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;
- Đang chấp hành hình phạt tù;
- Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.
Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định “Hơn con nuôi 20 tuổi trở lên” và “Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi”.
Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy định người được nhận làm con nuôi như sau:
- Trẻ em dưới 16 tuổi
Video đang HOT
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
- Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
- Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.
Thủ tục, hồ sơ
Căn cứ quy định tại các Điều 17, 18, 19, 20, 21, 22 Luật Nuôi con nuôi và quy định chi tiết tại Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ.
Hồ sơ của người nhận con nuôi gồm:
- Đơn xin nhận con nuôi (theo mẫu do Bộ Tư pháp quy định).
- Bản sao Hộ chiếu, Giấy CMND hoặc giấy tờ có giá trị thay thế;
- Phiếu lý lịch tư pháp.
- Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân: Nếu người xin nhận con nuôi là vợ chồng, thì phải có bản sao giấy chứng nhận kết hôn; nếu người xin nhận con nuôi là người độc thân, thì phải có văn bản xác nhận về tình trạng độc thân do UBND cấp xã, nơi người đó thường trú cấp; nếu người đó đã ly hôn, thì phải có bản sao Bản án/Quyết định ly hôn có hiệu lực của Tòa án; nếu người đó có vợ/chồng chết, thì phải có bản sao Giấy chứng tử của người chết;
- Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp và văn bản xác nhận về hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp (trừ trường hợp người xin nhận con nuôi thuộc diện được miễn các điều kiện này theo quy định tại khoản 3 Điều 14 của Luật Nuôi con nuôi).
- Phiếu lý lịch tư pháp, giấy khám sức khỏe, văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi trong nước chỉ có giá trị sử dụng nếu được cấp chưa quá 6 tháng, tính đến ngày nộp hồ sơ tại UBND cấp xã.
Hồ sơ của người được nhận làm con nuôi gồm:
- Bản sao Giấy khai sinh;
- Giấy khám sức khỏe do cơ quan y tế cấp huyện trở lên cấp;
- Hai ảnh toàn thân, nhìn thẳng không chụp quá 6 tháng;
- Tùy từng trường hợp cụ thể mà phải có giấy tờ sau:
Biên bản do UBND xã hoặc Công an xã lập đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi;
Giấy chứng tử của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em đã chết đối với trẻ em mồ côi;
Quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em bị mất tích đối với trường hợp trẻ em có cha, mẹ đẻ bị mất tích hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em bị mất năng lực hành vi dân sự đối với trường hợp trẻ em có cha đẻ, mẹ đẻ bị mất năng lực hành vi dân sự;
Quyết định tiếp nhận đối với trẻ em ở cơ sở nuôi dưỡng.
Cơ quan tiếp nhận, giải quyết hồ sơ: UBND cấp xã. Thời hạn giải quyết: 30 ngày, kể từ ngày UBND cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Lệ phí: 400.000 đồng. Miễn lệ phí đối với các trường hợp: Cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi; Cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi; Nhận trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo làm con nuôi.
Việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam đang thường trú ở trong nước làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Việc cho người nước ngoài thường trú tại nước chưa ký kết hoặc chưa cùng gia nhập với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi thì việc nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi chỉ được xem xét giải quyết, nếu xin đích danh trẻ em đang sống trong gia đình, nếu thuộc trường hợp là trẻ em mồ côi, tàn tật hoặc có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi.
Việc nhận con nuôi phải được sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha, mẹ thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của người giám hộ. Nếu người được xin làm con nuôi từ 9 tuổi trở lên thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó.
Ngoài những quy định trên, người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ điều kiện để nuôi con nuôi theo pháp luật của nước nơi người đó thường trú.
Việc nuôi con nuôi bị từ chối trong các trường hợp sau đây:
Người xin nhận con nuôi không đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo quy định;
Trẻ em được nhận làm con nuôi không đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định;
Có căn cứ để khẳng định việc xin nhận con nuôi là nhằm mục đích mua bán trẻ em, bóc lột sức lao động của trẻ em, xâm phạm tình dục đối với trẻ em hoặc nhằm mục đích trục lợi khác.
Trường hợp cơ quan đại diện từ chối đăng ký việc nuôi con nuôi thì phải giải thích rõ lý do.
Khi quyết định của toà án về việc chấm dứt nuôi con nuôi có hiệu lực pháp luật thì cơ quan đại diện phải ghi việc chấm dứt nuôi con nuôi vào sổ hộ tịch.
Những giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc xác nhận phải được Vụ Lãnh sự Bộ Ngoại giao nước tiếp nhận hoặc cơ quan khác được uỷ quyền chứng thực.
Lưu ý: Luật pháp nhiều nước quy định việc nuôi con nuôi làm chấm dứt hoàn toàn các quan hệ giữa người được nhận làm con nuôi với cha mẹ đẻ. Tuy nhiên, phù hợp với truyền thống dân tộc, luật pháp Việt Nam cho phép duy trì một số quan hệ pháp lý giữa người được nhận làm con nuôi với cha mẹ đẻ như quyền thừa kế (Điều 679 Bộ luật dân sự).
Như vậy, trong trường hợp của bạn, cháu bạn vẫn còn cha mẹ và cha cháu không đồng ý chấp nhận việc thỏa thuận cho nhận con nuôi thì dù con có mong muốn và người nhận con nuôi đủ điều kiện thì cũng không hợp pháp.
Ông bà nội có thể giành lại nuôi dưỡng và cấp dưỡng cháu được không?
Theo quy định tại Điều 71, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2013 thì quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cái trước tiên thuộc về cha, mẹ của cháu, cụ thể như sau:
“ Điều 71. Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
1. Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
2. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau, già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.“
Điều 85. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên – Bộ luật dân sự 2013
“ 1. Cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên trong các trường hợp sau đây:
a) Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con;
b) Phá tán tài sản của con;
c) Có lối sống đồi trụy;
d) Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
2. Căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định tại Điều 86 của Luật này ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm. Tòa án có thể xem xét việc rút ngắn thời hạn này.“
Ông, bà nội chỉ đương nhiên được quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng cháu khi ba thuộc trường hợp bị hạn chế quyền đối với con chưa thanh niên không có anh chị em có thể nuôi dưỡng (Điều 104 Luật hôn nhân gia đình 2013).
Theo thông tin bạn cung cấp: Hiện “ba của bé không được bình thường, thần kinh có vấn đề. Luôn chửi bé bất cứ lý do gì, không nghề nghiệp thu nhập ổn định, và thường xuyên để bé nhịn đói, không cho ông bà nội tiếp xúc cháu.
Từ 1 đứa trẻ năng động bây giờ bé chỉ sống nội tâm, không bạn bè, mỗi lần ba vui thì mới cho bé đi, con mỗi lần nổi khùng lên thì không cho đi và chửi không thương tiếc”.
Như vậy, mẹ cháu, bạn (cô cháu bé) hoặc ông bà nội của cháu có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha đối với cháu. Khi có yêu cầu mà có một trong các căn cứ tại Điều 85 thì Tòa án ra quyết định hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên.
Luật Gia Đồng Xuân Thuận
Theo_Đời Sống Pháp Luật
Nhà chùa nhận trẻ bỏ rơi làm con nuôi là trái luật?
Trẻ em bị cha mẹ đẻ "để quên" tại chùa vốn dĩ rất đáng thương nên chuyện nhà chùa, sư trụ trì chùa chăm sóc, nuôi dưỡng các bé cũng là việc làm hết sức nhân đạo. Tuy nhiên, nhà chùa không phải là môi trường gia đình lý tưởng cho trẻ phát triển, các sư thì không thể là cha, là mẹ của chúng.
Vì vậy, đã đến lúc cần nhìn nhận nghiêm túc thực trạng con nuôi nhà chùa để bảo đảm quyền lợi tốt nhất của những đứa trẻ tội nghiệp.
Hơn 1.000 trẻ em đang sống trong các cơ sở tôn giáo
Mới đây báo chí đưa tin: các ni cô chùa Bửu Trì (phường Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, TP.Cần Thơ) phát hiện một bé trai bị bỏ rơi bên vệ đường trước cổng chùa. Bé nặng khoảng 7kg, được quấn trong chiếc khăn cũ, đang ngủ li bì. Ni cô Tâm Niệm - trụ trì chùa - cũng cho biết, từ đầu năm 2014 đến nay, đã có 5 em bé sơ sinh bị bỏ rơi trước cổng chùa Bửu Trì và được các ni cô ở đây cưu mang, nuôi dưỡng.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trên phạm vi 32 tỉnh thành có tới 1.133 trẻ em hiện được nuôi dưỡng trong các nhà chùa và cơ sở tôn giáo. Phần lớn trẻ em thuộc diện bị bỏ rơi, cha mẹ không đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng trẻ hoặc là con ngoài giá thú. Nhiều địa phương cho biết, việc nhà chùa tiếp nhận và nuôi dưỡng trẻ em đang có chiều hướng gia tăng.
Ảnh chỉ mang tính chất minh họa. Nguồn Internet
Xét về phương diện chăm sóc và bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, các nhà chùa, sư trụ trì tiếp nhận trẻ em bị bỏ rơi, cơ nhỡ, không có cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ đẻ không có khả năng nuôi dưỡng là nhằm mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, xu hướng gia tăng số trẻ em được nuôi dưỡng trong các chùa trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn về vật chất và thiếu hẳn môi trường gia đình là điều mà xã hội và Nhà nước cần quan tâm thích đáng.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em trong điều kiện như vậy không đáp ứng đặc điểm, nhu cầu và thói quen sinh hoạt hàng ngày của trẻ em. Mặc dù nhà chùa hoặc các sư trụ trì không ép buộc trẻ em theo đạo giáo của mình nhưng việc sống tại chùa lâu dài ảnh hưởng đến quá trình phát triển thể chất và tinh thần của trẻ em.
Nhà chùa hoặc sư trụ trì chỉ có thể tiếp nhận trẻ em vào chăm sóc nuôi dưỡng khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện thành lập của một cơ sở bảo trợ xã hội theo quy định tại Nghị định số 68/2008/NĐ-CP và Nghị định số 81/2012/NĐ-CP (đã có những cơ sở tôn giáo được công nhận là cơ sở bảo trợ xã hội, đặc biệt có cơ sở tôn giáo được chỉ định giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài như Nhà Tình thương Tổ đoàn kết Thuận An, tỉnh Bình Dương).
Như vậy, trong trường hợp nhà chùa không đáp ứng được điều kiện và thủ tục thành lập cơ sở bảo trợ xã hội thì việc chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ em lâu dài cũng sẽ có vấn đề về phương diện pháp lý. Ngoài ra, còn gây khó khăn cho việc tìm gia đình thay thế sau này khi trẻ em không có cha mẹ đẻ hoặc cha mẹ đẻ không còn khả năng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Bởi lẽ thủ tục đăng ký nuôi con nuôi sẽ gặp khó khăn trong trường hợp nhà chùa không có tư cách pháp nhân của một cơ sở bảo trợ xã hội để tiếp nhận trẻ em vào chăm sóc và nuôi dưỡng lâu dài.
Trong trường hợp này, hồ sơ trẻ em sẽ thiếu nhiều loại giấy tờ theo quy định của pháp luật như Quyết định tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng, ý kiến của những người liên quan (sư trụ trì, nhà chùa không phải là người giám hộ cho trẻ). Rất có thể khi trẻ em bị bỏ rơi tại đây, nhà chùa không tiến hành thủ tục thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền của địa phương để tiến hành lập Biên bản trẻ em bị bỏ rơi, nhằm bảo đảm quyền tìm lại cha mẹ đẻ cho trẻ em theo quy định của pháp luật.
Đăng ký con nuôi là không có cơ sở pháp lý
Qua sơ kết 3 năm thực hiện Luật Nuôi con nuôi năm 2010, các địa phương đều nhận thức đúng đắn việc các sư trụ trì, nhà chùa nhận trẻ em sống trong chùa hoặc các cơ sở tôn giáo làm con nuôi là không phù hợp, không đảm bảo được quyền lợi tốt nhất cho trẻ em.
Việc nuôi con nuôi như vậy không bảo đảm mục đích nuôi con nuôi theo Điều 2 của Luật Nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, đảm bảo con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình.
Bé trai bị bỏ rơi tại chùa Bửu Trì.
Mặc dù vậy, vẫn có địa phương còn lúng túng khi từ chối giải quyết đăng ký nuôi con nuôi cho các nhà chùa hoặc sư trụ trì; có địa phương nhận thức đúng về vấn đề này song vẫn tạo điều kiện cần thiết để cơ sở tôn giáo được đăng ký nuôi con nuôi với 151 trường hợp trẻ em được các sư trụ trì nhận làm con nuôi.
Không những thế, để vận động, thuyết phục nhà chùa và sư trụ trì, một số địa phương đã phát huy vai trò của công tác phối hợp liên ngành giữa UBND tỉnh thành, Sở Tư pháp, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Giáo dục, Sở Y tế, Ban Tôn giáo tỉnh ủy hoặc Mặt trận Tổ quốc thực hiện các hoạt động về nuôi con nuôi và cùng giải quyết vấn đề nuôi con nuôi nhà chùa.
Nhiều địa phương tổ chức nói chuyện và giải thích để các sư trụ trì làm đúng theo quy định pháp luật khi có trẻ em bị bỏ rơi tại chùa cũng như vận động, thuyết phục nhà chùa và sư trụ trì chuyển trẻ em vào cơ sở bảo trợ xã hội để chăm sóc và nuôi dưỡng.
Tuy nhiên, vấn đề khá nhạy cảm và phức tạp này chưa được giải quyết dứt điểm. Không phải sư trụ trì nào cũng đồng tình với việc giao lại trẻ em vào cơ sở bảo trợ xã hội thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội để các cháu được hưởng chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng của Nhà nước, được sống trong gia đình thay thế phù hợp.
Theo quan điểm của Cục Con nuôi (Bộ Tư pháp), việc đăng ký nuôi con nuôi cho nhà chùa hay sư trụ trì chùa là không đúng quy định của pháp luật. Bởi "việc đăng ký nuôi con nuôi nhà chùa không đảm bảo đúng mục đích nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ cha mẹ con giữa người nhận con nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi. Hơn nữa, pháp luật chỉ cho phép đăng ký nuôi con nuôi giữa cá nhân với cá nhân.
Vì vậy, việc nhà chùa (dưới danh nghĩa tổ chức) đứng tên nhận trẻ em đang được nuôi dưỡng trong nhà chùa làm con nuôi là không phù hợp. Cá nhân các sư trụ trì chùa đã xuất gia nương nhờ cửa Phật để tu hành nên không hướng tới việc tạo lập mái ấm gia đình cho trẻ em. Nghĩa là, sư trụ trì không đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi. Nhà chùa và các sư trụ trì chỉ có thể chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em, chứ không thể trở thành cha, mẹ nuôi được", bà Đào Thị Hà (Phó trưởng Phòng Chính sách văn bản, Cục Con nuôi) giải thích.
Nghiên cứu mô hình nuôi dưỡng trẻ phù hợp hơn
Trong thời gian qua, bên cạnh công tác kiểm tra tình hình đăng ký nuôi con nuôi ở các địa phương, Cục Con nuôi đã hướng dẫn các địa phương về nghiệp vụ đăng ký nuôi con nuôi, thể hiện thái độ dứt khoát đối với việc không đăng ký nuôi con nuôi nhà chùa.
Sau khi có hướng dẫn của Cục Con nuôi, Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp đã chỉ đạo Phòng Tư pháp quận/huyện đề nghị dừng việc đăng ký nuôi con nuôi nhà chùa khi có yêu cầu, hoặc chỉ giải quyết thủ tục giám hộ cho nhà chùa hoặc sư trụ trì để trẻ em được nhập khẩu, đăng ký khai sinh và có đủ điều kiện sau này đi học.
Về giải pháp lâu dài, Cục Con nuôi cho rằng cần đẩy mạnh hơn công tác tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật về nuôi con nuôi, nâng cao nhận thức của người dân và các sư trụ trì chùa trong việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em, giải thích cho sư trụ trì và nhà chùa chính sách pháp luật của Nhà nước về nuôi con nuôi để trẻ em có được gia đình thay thế phù hợp; đồng thời tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương trong việc giải quyết quyền và lợi ích của trẻ em được nuôi dưỡng tại các nhà chùa hoặc chuyển trẻ em vào cơ sở nuôi dưỡng để đảm bảo cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng và tìm gia đình thay thế cho trẻ.
Cục cũng đề nghị Sở Tư pháp hướng dẫn cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi trên địa bàn xã/phường.
Đại diện Sở Tư pháp tỉnh Nam Định nhấn mạnh rằng phải phân biệt việc nuôi con nuôi với việc nuôi dưỡng trẻ em, "xem xét việc nhận nuôi con nuôi trong chùa chỉ là quan hệ nuôi dưỡng, vừa phù hợp với Điều 2 của Luật Nuôi con nuôi vừa phù hợp với văn hóa người Việt và giáo lý của đạo Phật".
Vị đại diện này cũng phân tích, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ em bị bỏ rơi và được nhà chùa nhận làm con nuôi có xu hướng gia tăng là do hoạt động của một số trung tâm trợ giúp nhân đạo, trung tâm bảo trợ xã hội còn có những hạn chế nên đã kiến nghị: "Bộ Tư pháp, các cơ quan liên quan như các tổ chức nhân đạo, tổ chức nuôi con nuôi quốc tế phối hợp với chính quyền địa phương nghiên cứu xây dựng mô hình nuôi dưỡng trẻ có hoàn cảnh đặc biệt phù hợp, hiệu quả".
Theo Pháp luật Việt Nam
Ai là người bồi thường khi người tâm thần gây thiệt hại? Trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại thì trong trường hợp này trách nhiệm bồi thường thuộc về ai? Hỏi: Chú tôi năm nay 45 tuổi, bị tâm thần mức độ nặng. Ngày 15/4/2025 chú đã đốt nhà hàng xóm gây thiệt hại về tài sản rất lớn. Như vậy chú tôi có vi phạm pháp luật...