Bánh khúc làng Diềm duyên tình quan họ
Dường như mỗi làn điệu quan họ thắm tình mượt mà đã hòa quyện trong từng chiếc bánh khúc, nên chiếc bánh làng Diềm cũng đậm đà thủy chung như muốn níu chân “người ơi, người ở đừng về…”.
Bánh khúc làng Diềm níu chân người về – Ảnh P.T.T.
Chẳng biết từ khi nào bánh khúc làng Diềm (Yên Phong, Bắc Ninh) lại nổi tiếng và thu hút du khách gần xa như thế, chỉ biết rằng từng chiếc bánh tròn nhỏ như nắm xôi ấy đã tạo nên một nét văn hóa ẩm thực riêng cho mảnh đất Kinh Bắc này.
Khi những người nông dân kết thúc vụ thu hoạch lúa cũng là lúc mùa rau khúc bắt đầu mọc. Chẳng ai trồng rau khúc mà nó cứ âm thầm mơn mởn mọc lên ở những luống cày, bãi phù sa màu mỡ. Loài cây có màu xanh và hơi óng ánh nhũ bạc ấy đã dâng hiến cho mảnh đất Kinh Bắc này một món quà quê quý giá mang tên chính loại lá độc đáo làm ra nó – đó là bánh khúc làng Diềm ngày nay.
Bánh khúc làng Diềm có hai loại: nhân hành và nhân đỗ. Bánh khúc nhân đỗ có vị bùi của đỗ, vị ngậy của thịt mỡ và thơm của hạt tiêu. Bánh khúc nhân hành có khác hơn đôi chút: hành được dùng làm nhân bánh khúc nhất thiết phải là hành khô, cộng thêm mộc nhĩ, hạt tiêu, rau răm, thịt ba chỉ băm nhỏ trộn lẫn với nhau.
Bánh khúc thường được người dân làng Diềm nặn với hai hình thù khác nhau, hình tròn như chiếc bánh rán hoặc hình tai voi. Dù được nặn bằng hình thù nào thì vỏ bánh cũng được dát rất mỏng và không bị lộ nhân.
Để làm nên những chiếc bánh khúc nhỏ xinh, đòi hỏi phải có sự cần mẫn, tỉ mỉ, khéo léo của người xưa truyền lại.
Video đang HOT
Trước tiên là việc hái rau khúc ngoài đồng. Theo kinh nghiệm, muốn bánh khúc có hương vị thơm đặc trưng nên chọn rau khúc có bản nhỏ, dày bụ, màu bạc, được hái lúc ra hoa là tốt nhất, bởi hoa khúc càng già thì hương vị bánh càng đậm.
Xưa kia gạo nếp làm bánh khúc là gạo nếp cái hoa vàng nổi tiếng và phải được chọn lựa kỹ, bởi nếp ngon bánh mới mềm và dẻo, nhưng ngày nay khi giống nếp cái hoa vàng trở nên khan hiếm thì người làm bánh cũng có thể thay bằng loại gạo khác.
Bột làm bánh không phải hoàn toàn là gạo nếp mà theo tỉ lệ 8 gạo nếp 2 gạo tẻ. Gạo tẻ sau khi đem ngâm được giã nhuyễn với rau khúc, tỉ lệ gạo và lá làm bánh cũng là một bí quyết để có được nồi bánh như ý, bởi nếu nhiều gạo quá bánh khúc sẽ không có mùi vị đặc trưng của lá khúc, hay lượng gạo không đủ bánh sẽ thiếu đi độ kết dính.
Nhân bánh khúc làm bằng đậu xanh bỏ vỏ, ngâm bở, đem đồ chín tới, giã thật mịn rồi viên lại bằng quả trứng gà, thêm miếng thịt ba chỉ hạt lựu và chút hạt tiêu cho dậy mùi. Sau khi dàn mỏng lớp vỏ bao quanh kín nhân bánh, nhẹ nhàng xếp những nắm xôi vào chõ như đồ xôi, mỗi lớp bánh lại được rắc một lớp gạo nếp đã ngâm kỹ, cả đáy và miệng nồi phủ lá chuối xanh cho thơm. Sau đó đậy vung chặt đun đều lửa, bánh chín sẽ có một lớp áo xôi khoác bên ngoài trông rất hấp dẫn.
Người dân nơi đây vẫn thường nói với nhau rằng bánh khúc làng Diềm là sự kết hợp tuyệt vời của các sản vật thiên nhiên, từ cái dẻo thơm của nếp cái hoa vàng, vị bùi của đỗ xanh sánh quyện cùng vị béo của thịt ba chỉ. Tất cả được dung hòa bởi vị mát lành, nồng ấm của một loại rau làm nên hương vị đặc trưng của bánh – rau khúc.
Bánh khúc là thứ quà có thể giúp người ta đỡ đói lòng khi lỡ bữa. Có lẽ với nhiều người bánh khúc chẳng có gì là lạ nữa, nhưng để ăn một chiếc bánh khúc ngon, nhớ đời thì chẳng đâu bằng bánh khúc làng Diềm.
Thưởng thức bánh khúc khi còn nóng cùng với muối vừng hay muối lạc mới thấy hết được hương vị rất riêng của nó, thứ hương vị tự nhiên của ruộng đồng được kết hợp một cách khéo léo, tài tình gửi trọn trong tấm bánh bé nhỏ. Và khi thưởng thức người ta chỉ có thể thốt lên “Ôi hương đồng cỏ nội quê mình là đây”.
Theo tuoitre
Bánh khúc làng Diềm - Đượm tình quan họ
Trong bánh, ngoài xôi, lớp nếp óng dẻo bọc lấy lớp nhân đậu xanh bên trong, không phải là bánh, chẳng hẳn là xôi. Đó chính là bánh khúc - đặc sản làng Diềm, ven hữu ngạn sông Cầu, thuộc xã Hòa Long, huyện Tiên Phong tỉnh Bắc Ninh
Nguồn ảnh: blogspot
Bánh khúc tròn nhỏ như nắm xôi, từng hạt nếp căng tròn bóng mịn bao xung quanh lớp bột mầu xanh xanh và nhân đỗ vàng rộm. Sở dĩ có tên là bánh khúc là bởi vì khi làm bánh, người ta sẽ dùng rau khúc, thái rối, nấu lên, nhồi cả cái và nước với bột nếp thành khối dẻo rồi cho nhân đậu xanh vào. Lá khúc nhỏ, trên mặt lá xanh bạc như được bôi một lớp phấn trắng. Lá khúc tươi hay khô đều có thể dùng làm bánh. Mùa đông, rau khúc hiếm, nên mỗi độ Giêng, là mùa của khúc, lá khúc sẽ được phơi khô, nghiền bột và được để dành để làm bánh trong cả năm. Rau khúc có hai loại: khúc tẻ và khúc nếp. Lá khúc tẻ to hơn khúc nếp, nhưng khi làm bánh, người ta thường chọn lá khúc nếp, bởi lá khúc nếp thơm ngon hơn nhiều.
Rau khúc. Nguồn ảnh: phunuonlime
Để làm được một chiếc bánh khúc ngon không khó, nhưng quy trình đòi hỏi sự tỷ mỷ và mất khá nhiều thời gian. Chỉ riêng khâu chọn nguyên liệu cũng phải thật có kinh nghiệm. Bột làm bánh khúc không phải 100% là gạo nếp, mà với tỉ lệ 8 phần nếp, 2 phần gạo tẻ. Gạo tẻ là loại gạo được lựa chọn kỹ càng, ngon, trắng đều, trong, dài hạt. Gạo nếp dẻo, thơm. Gạo tẻ sau khi ngâm vài tiếng đồng hồ được vo, đãi thật sạch đem giã nhuyễn cùng với lá khúc. Tỷ lệ gạo và lá để làm bánh khúc cũng là một bí quyết để có được món bánh như ý, bởi nhiều gạo quá, bánh khúc sẽ không có vị đặc trưng của loại lá này, còn nếu lượng gạo không đủ, bánh sẽ thiếu độ kết dính.
Có thể thưởng thức bánh khúc làng Diềm với hai loại nhân: nhân hành và nhân đỗ. Bánh khúc nhân đỗ có vị bùi của đỗ, vị béo của thịt mỡ và vị thơm của hạt tiêu. Đậu xanh bỏ vỏ, ngâm nước cho bở, đồ chín tới, giã thật mịn, xào với ít hành băm nhỏ và thịt nạc dăm xay nhuyễn, trộn vào nhau để làm nhân. Tuy nhiên, ngon nhất vẫn là thịt ba chỉ thái nhỏ, để khi ăn, cảm nhận được vị béo của mỡ, thêm chút tiêu cho dậy mùi và cay cay.
Bánh khúc nhân hành có khác hơn đôi chút. Hành được dùng làm nhân bánh khúc nhất thiết phải là hành khô, cộng thêm mộc nhĩ, hạt tiêu, răm, thịt ba chỉ băm nhỏ trộn lẫn với nhau. Bánh khúc thường được người dân làng Diềm nặn với 2 hình thức: tròn như bánh rán hoặc hình tai voi, nhưng dù với hình thức nào, vỏ bánh cũng phải dát mỏng mà không để lộ nhân.
Sau khi dàn mỏng lớp vỏ bao kín nhân bánh, xếp từng lượt bánh vào nồi hấp như đồ xôi, mỗi lớp bánh lại rắc một lượt gạo nếp ngon đã ngâm kỹ làm áo.
Nguồn ảnh: xinhxinh
Ngon nhất vẫn là thưởng thức chiếc bánh khúc khi còn nóng hổi. Những hạt nếp trong, căng tròn, bóng mọng quyện với mùi thơm, bùi, đặc trưng của lá khúc, vị ngậy béo của nhân đỗ thịt, tất cả hoà quyện tạo nên hương vị thơm ngon, hấp dẫn riêng.
Nguồn ảnh: wordpress
Người làng Diềm chỉ làm bánh khi có khách quý đến chơi nhà và các dịp rằm tháng giêng, lễ hội Đền Vua bà 6 - 2 và Hội
Tát giếng 3 - 3 âm lịch. Đó cũng chính là mùa của cây khúc.
Nguồn ảnh: go2vietnam.edu
Dường như mỗi làn điệu quan họ thắm tình, mượt mà đã hòa quyện trong từng chiếc bánh khúc, nên chiếc bánh làng Diềm cũng đậm đà, thủy chung, như níu chân, "người ơi, người ở, đừng về"....
Bánh khúc - đặc sản đất phố Hiến Người Hưng Yên thật tài tình khi kết hợp những sản vật miền quê như lá chuối, rau khúc và gạo nếp để tạo ra một loại bánh giản dị, thơm ngon. Được thưởng thức chiếc bánh khúc còn nóng hổi trong một chiều đông giá rét mới hiểu thấu đáo về sự tài tình đó. Đoàn thực tế của trường xuôi theo...