Bánh khảo – hương vị tết của người Tày
Ngày tết, ngoài hạt bí, mứt, kẹo,… Người Tày ở Bắc Kạn thường làm thêm món bánh khảo để mời khách đến thăm nhà. Những chiếc bánh khảo chỉ nhỏ bằng bao diêm với nhiều màu sắc vui mắt và được xem như một thứ “kẹo tết” của người Tày.
Cứ độ 24 tháng chạp, sau khi ăn tết ông Công ông Táo xong, các nhà trong bản lại rục rịch làm mỗi nhà lấy trăm cái bánh khảo để đón Tết Nguyên đán. Với người Tày, tết mà không có bánh khảo thì chẳng còn hương vị tết nữa. Vì bánh khảo để được lâu mà vẫn giữ được hương vị thơm ngon, không bị mốc, thiu nên người Tày ví loại bánh này tựa như một thứ lương khô ngọt ngào dễ ăn. Họ thường mang bánh khảo ra mời khi có khách đến nhà chúc tết.
Bánh khảo của người Tày ở Bắc Kạn
Để có được những phong bánh khảo thơm phức phải trải qua thật nhiều công đoạn. Nào là chọn gạo nếp, rang gạo, xay nhỏ, hạ thổ,….
Đầu tiên phải chọn gạo nếp để làm bánh. Chọn loại gạo nếp ngon, thơm, hạt tròn mẩy rồi đãi sạch. Sau đó gạo được mang đi rang. Rang gạo phải cẩn thận vì nếu rang chưa đủ độ chín thì bánh sẽ không đủ độ thơm. Còn nếu rang gạo cháy vàng quá thì khi xay bột sẽ bị sẫm màu không đẹp, bánh bị mất mùi thơm. Đổ gạo nếp đã chín vào cối đá xay mịn. Bột càng mịn bánh càng ngon.
Video đang HOT
Công đoạn hạ thổ cũng rất quan trọng. Người Tày thường chọn một góc khuất trong nhà, quét sạch và vảy một chút nước cho có độ ẩm, lót vài lớp giấy báo rồi trải đều bột ra. Lấy giấy phủ lên trên bột, cứ hạ thổ như vậy khoảng ba, bốn ngày cho bột hút đủ ẩm, ỉu ra là có thể đem đóng khuôn bánh.
Khi bột đã hạ thổ xong thì đem bột trộn lẫn với đường. Đường dùng làm bánh thường là đường kính hoặc đường phèn. Nếu là đường phèn thì phải chọn những miếng đường vàng ruộm, giã thật mịn. Đường có mịn khi trộn với bột mới tạo độ kết dính cao. Sau đó dùng khúc gỗ tròn như cái chày chà đi chà lại cho bột ngấm đường. Muốn thử xem bột và đường đã đủ độ kết dính chưa, người ta thường nắm một nắm bột nhỏ thả xuống mâm xem nắm bột có bị vỡ không. Nắm bột rơi xuống vẫn còn nguyên là được.
Tiếp đó là chuẩn bị nhân bánh. Nhân bánh gồm có lạc, vừng và thịt mỡ trộn lẫn vào nhau. Vừng đen và lạc rang giã nhỏ, mỡ lợn luộc chín, thái hạt lựu rồi đem ướp với đường kính. Như vậy, bánh khảo vừa có được hương thơm của gạo nếp, bùi bùi của vừng lạc, vị ngọt của đường kính và béo ngậy của mỡ. Tất cả hòa quyện với nhau khiến bánh khảo có một hương vị đặc biệt không lẫn vào đâu được.
Bánh sau khi đóng khuôn xong cắt thành từng phong nhỏ, gói lại thật khéo bằng một lớp giấy đủ màu xanh, đỏ, tím, vàng. Chiếc bánh khảo giờ đây đã được khoác lên mình một chiếc áo rực rỡ, vô cùng bắt mắt.
Bánh khảo từ lâu đã trở thành món ăn truyền thống của người Tày ở Bắc Kạn, bánh được để lên bàn thờ cúng ông bà tổ tiên và đãi khách đầu năm mới./.
Theo PNO
Bánh gai: Món ngon của người Tày, Nùng Cao Bằng
Bánh gai Cao Bằng gắn liền với một truyền thuyết. Người dân nơi đây vẫn kể rằng vào thời vua Lý Thái Tông (đầu thế kỷ 10), giặc Tống sang xâm lược nước ta, thủ lĩnh của người Cao Bằng là Nùng Trí Cao đã chỉ huy quân dân vùng biên ải đánh giặc. Đồng bào làm bánh gai cho các chiến binh đem theo làm lương khô ra trận. Bánh được xâu thành từng cặp để đeo bên người cho tiện cho nên người Tày, Nùng gọi là pẻng tải (bánh đeo).
Gạo để làm bánh phải là loại nếp ngon, không lẫn tẻ, có vậy bánh mới mềm và dai, ăn không cứng. Nếp được ngâm chừng một buổi cho no nước, xay trong cối đá thành một thứ bột đặc sánh, đựng trong túi vải, treo lên cho róc nước.
Lá gai đã được hái về từ trước, tước bỏ gân lá, phơi khô. Lá khô đem ninh, khi đun bỏ thêm chút vôi tôi cho mau nhừ. Xong, rửa sạch, vắt khô, thái mịn. Đường phên (một loại đường thẻ, miếng to chừng bàn tay) đun cho sôi chảy rồi trộn với lá gai thành một thứ mật sền sệt. Người ta nhào mật này với bột cho đều rồi đem giã trong cối đá cho thật nhuyễn.
Bột giã xong có màu xanh đen, mịn màng, dẻo quánh. Mùi nếp, mùi mật, mùi lá gai quyện vào nhau thơm nức.
Bánh gai gói bằng lá chuối, hình dẹt. Nhân bánh gai được làm bằng lạc rang giã nhỏ hoặc đỗ xanh trộn đường. Bánh hấp trong chõ như đồ xôi. Từ lúc nước sôi cho đến khi bánh chín, chừng tàn
Khi ăn, không thể lột bỏ lá bánh một cách vội vàng được. Phải thong thả tước lá thành từng sợi để bánh khỏi dính theo lá. Chiếc bánh bóc ra đen nhánh, mịn màng như một lát thạch. Bánh có vị ngọt sắc của đường, vị dẻo thơm của nếp và lá gai, vị bùi của nhân đậu. Ăn không ngấy.
Bánh gai có thể để nhiều ngày mà không sợ mốc. Nếu để lâu, bánh khô, người ta có thể đem nướng trên than hồng, bánh nở phồng, ăn vẫn ngon. Hoặc có thể đem rán lại cho bánh mềm, ăn có vị ngon riêng.
Trước kia, người Cao Bằng thường chỉ làm bánh gai vào dịp rằm tháng bảy, vừa để cúng tổ tiên, ông bà vừa để ôn lại câu chuyện về những ngày hào hùng xưa kia. Bây giờ bánh trở thành một món quà dân dã, thường có bán trong những ngày chợ phiên, những quán nước. Khách nơi xa đến Cao Bằng bao giờ cũng mua lấy mươi cặp bánh gai đem về làm quà cho người thân, như để giới thiệu một chút văn hóa của một vùng đất biên cương.
Theo PNO
Mát lành bánh ngải người Tày Lá ngải cứu gần gũi trong dân gian bởi đặc tính mát lành nhưng bánh ngải cứu thì là một đặc sản khá độc đáo của đồng bào người Tày. Đến Lạng Sơn (nơi người Tày sinh sống đông), ngoài nếm măng ớt mắc mật, xôi lá cẩm, người ta không quên tìm bánh ngải cứu để cảm nhận hương vị lạ từ...