Ba Vì đột phá bằng nông sản chủ lực
Khi bắt tay vào xây dựng nông thôn mới (NTM), huyện Ba Vì (Hà Nội) đã xác định chọn xây dựng, phát triển thương hiệu cho các loại nông sản chủ lực là bước đột phá giúp cải thiện, năng cao thu nhập cho người dân… Thực tiễn đã chứng minh đó là hướng đi đúng đắn.
Nhiều thương hiệu nổi tiếng
Thôn Minh Hồng, xã Minh Quang (Ba Vì) từ lâu đã nổi tiếng với nghề trồng và chế biến miến dong. Vào mùa sản xuất, đi đến đâu cũng bắt gặp những lò miến thủ công đỏ lửa suốt từ sáng tới tối. Khắp trong nhà, ngoài sân, những phên miến được phơi thành hàng trông rất đẹp mắt. Trò chuyện với chúng tôi, ông Nguyễn Văn Duẫn – Chủ nhiệm HTX Miến dong Minh Hồng cho biết, năm 2001, sau khi được Sở KHCN cấp bằng công nhận làng nghề, nghề trồng dong riềng, chế biến tinh bột và làm miến Minh Hồng mới phát triển mạnh.
Nghề làm miến dong đang mang lại thu nhập cao cho người dân thôn Minh Hồng, xã Minh Quang, huyện Ba Vì (Hà Nội). Ảnh: Hải Đăng
Ba Vì đang đặt mực tiêu phấn đấu đến năm 2020, mỗi năm bình quân có thêm từ 2 – 4 xã đạt chuẩn NTM và đến năm 2020, toàn huyện có trên 80% xã đạt chuẩn NTM. Ông Hà Xuân Hưng -
Bí thư Huyện ủy Ba Vì
“Hiện nay, toàn thôn có 289 hộ thì có tới 193 hộ tham gia chế biến tinh bột dong riềng và sản xuất miến. Những hộ còn lại dù không sản xuất nhưng đều trồng cây dong riềng để cung cấp cho các cơ sở chế biến. Ưu điểm của dong riềng là dễ chăm sóc, chịu hạn tốt, càng nắng hanh thì củ càng cho bột trắng và thơm. Đến nay, diện tích cây dong riềng của toàn thôn đã đạt 180ha” – ông Duẫn chia sẻ.
Cũng theo ông Duẫn, hiện sản phẩm miến dong Minh Hồng đã được đầu tư khá mạnh cho khâu bao bì, nhãn mác với đầy đủ tên, địa chỉ, số điện thoại của hộ sản xuất. Miến dong Minh Hồng đã được chuyển đi tiêu thụ khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước. Hiện, giá bán buôn miến dong hàng năm tại Minh Hồng vào khoảng 50.000 đồng/kg. Nhờ nghề này mà nhiều hộ ở Minh Hồng có doanh thu hàng năm từ miến khoảng 250 triệu đồng.
Video đang HOT
Cùng với thương hiệu miến dong, thương hiệu gà đồi Ba Vì đang được thị trường Thủ đô cũng như cả nước biết đến. Hiện tại, quy mô chăn nuôi nông hộ ở Ba Vì trung bình từ 100 – 500 con gà thịt/hộ, quy mô chăn nuôi trang trại từ 2.000 – 10.000 con/trang trại, tập trung tại các xã vùng đồi gò như Cẩm Lĩnh, Thụy An, Ba Trại, Cam Thượng…
Là hộ nuôi gà quy mô lớn theo hướng VietGAP, trung bình mỗi năm gia đình bà Nguyễn Thị Bài ở thôn Liên Minh, xã Thụy An nuôi khoảng 10.000 con. “Nhờ có kiến thức và được địa phương hỗ trợ chính sách, thị trường, sản phẩm gà của tôi luôn dễ bán và được giá. Trừ chi phí, mỗi năm gia đình tôi thu lãi trên 150 triệu đồng” – bà Bài chia sẻ.
Ông Hà Xuân Hưng – Bí thư Huyện ủy Ba Vì cho biết: “ối với Ba Vì, sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo và là thế mạnh của huyện. Hướng nông nghiệp đến sản xuất hàng hóa gắn với xây dựng NTM là bước đi đúng đắn và có ý nghĩa to lớn đến việc phát triển kinh tế – xã hội của địa phương”.
Cũng theo ông Hưng, để thực hiện điều đó, từ sớm huyện đã có chủ trương liên kết “bốn nhà” để tạo ra những vùng sản xuất khép kín, chất lượng cao, đạt hiệu quả kinh tế lớn và hạn chế thấp nhất những rủi ro cho người nông dân. “Đặc biệt, từ việc tạo môi trường đầu tư tốt, huyện đã thu hút và tạo điều kiện cho 546 doanh nghiệp công nghiệp, nông nghiệp trên địa bàn phát triển. Ngoài ra, huyện còn thu hút được nhiều doanh nghiệp ngoài huyện vào đầu tư phát triển kinh tế, nông nghiệp, cũng như liên kết với nông dân sản xuất nông sản theo chuỗi giá trị” – ông Hưng nhấn mạnh.
Ông Hưng cũng cho hay, hiện huyện đã xây dựng và phát triển được nhiều sản phẩm nông sản có thương hiệu như sữa Ba Vì, chè Ba Vì, miến dong Minh Hồng, gà đồi Ba Vì… nhờ thế mà nông dân có thu nhập cao, trong đó nhiều hộ đã có thu nhập hàng trăm triệu đồng đến hàng tỷ đồng/năm.
Phấn đấu trên 80% số xã đạt chuẩn NTM
Ông Hưng cho biết thêm, trong việc triển khai xây dựng NTM của Ba Vì đã đạt được thành tựu khá toàn diện. Điển hình là phong trào “Dồn điền, đổi thửa”, đến nay Ba Vì đã dồn đổi được hơn 5.300ha, đạt 116% kế hoạch thành phố giao. Toàn huyện đã bê tông hóa 220km và đào đắp 1.100km đường giao thông, thủy lợi nội đồng, xây dựng 259,98km đường giao thông nông thôn. Hiện, bình quân thu nhập đầu người của huyện đã đạt gần 35 triệu đồng/người/năm.
Đến cuối năm 2016 vừa qua, huyện Ba Vì đã có thêm 3 xã gồm Sơn Đà, Đông Quang và Thụy An đủ điều kiện đạt chuẩn NTM. Như vậy, đến nay, toàn huyện có 10/33 xã về đích NTM, chiếm 30,3%. “Dù kết quả còn khiêm tốn so với nhiều địa phương khác song Ba Vì cũng tự hào là có tiêu chí thu nhập bình quân đầu người đạt cao, có nhiều thương hiệu nông sản nổi tiếng được người tiêu dùng Hà Nội và cả nước tin dùng” – ông Hà Xuân Hưng khẳng định.
Theo Danviet
Loay hoay xác định nông sản chủ lực: Gấp rút định vị lại sản phẩm
Trước thực tế một số loại nông sản chủ lực sụt giảm tăng trưởng, các chuyên gia nông nghiệp cho rằng đã đến lúc chúng ta không cần tự hào là cường quốc xuất khẩu gạo, cà phê hay cá tra nữa, bởi những người làm ra sản phẩm này thu nhập vẫn thấp.
Điều cần làm là "chế biến" các sản phẩm có nhiều thế mạnh như lúa gạo, trái cây... thành những "chiếc bánh" ngon hơn, để những người làm ra chúng thu lãi hợp lý hơn...
Thay đổi ngay tư duy làm ăn
Theo chuyên gia nông nghiệp, GS Võ Tòng Xuân - Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, thách thức đối với nông sản chủ lực ĐBSCL là chi phí sản xuất cao, sản phẩm bán ra đắt tiền hơn so với sản phẩm của các nước khác nhưng chất lượng, sản lượng lại không đảm bảo, nếu không tổ chức lại sản xuất sẽ thua ngay trên sân nhà. Thực tế cho thấy, hầu hết nông dân vẫn làm ăn riêng lẻ. Trong khi đó, các HTX hoạt động chưa thật sự hữu hiệu, nhiều trường hợp nông dân và doanh nghiệp không tin tưởng vào nhau dẫn đến bất đồng trong khâu sản xuất và tiêu thụ. Những hiệp định thương mại được ký kết sẽ không có lợi cho nông dân làm cá thể, không sản xuất theo hướng VietGAP, GlobalGAP... Chính vì vậy phải thay đổi ngay tư duy sản xuất các loại nông sản chủ lực.
Thu hoạch mía ở thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Ảnh: Huỳnh Xây
Về phía người dân, GS Võ Tòng Xuân cho rằng, phải có sự chủ động làm ra nông sản sạch, theo hướng giảm chi phí sản xuất, bởi người tiêu dùng hiện nay sẽ chọn dùng hàng tốt nhất và rẻ nhất. Do đó, sản phẩm nông sản của chúng ta có chất lượng thấp mà bán giá cao hơn hàng ngoại nhập thì sẽ sớm thua trên sân nhà.
"Nhà nước phải đầu tư giống cây, con có chất lượng theo yêu cầu thị trường, tạo ra các giống cây, con có khả năng thích ứng cao với hạn, mặn và kháng bệnh, chuyển giao các giải pháp kỹ thuật nhằm hạ giá thành sản xuất, ít hao hụt trong quá trình thu hoạch và luôn tạo ra sản phẩm mới để tăng tính cạnh tranh. Phía các doanh nghiệp, phải tham gia vào chuỗi giá trị, liên kết với nông dân, tìm tòi các cách làm mới, học hỏi kinh nghiệm các nước khác trong công nghệ chế biến, bảo quản, xây dựng thương hiệu có uy tín. Có như vậy mới phát huy lợi thế nông sản sẵn có trong nước. Nếu không thay đổi suy nghĩ và phương pháp làm ăn, tới đây, khi thị trường mở cửa sâu rộng theo các hiệp định, các doanh nghiệp quốc tế sẽ tràn vào và chèn ép, đè bẹp các công ty kinh doanh mặt hàng nông sản lạc hậu trong nước" - GS Võ Tòng Xuân nói.
Đối với một số nông sản cụ thể như cây mía, PGS-TS Lê Văn Bảnh - Cục trưởng Cục Chế biến, Thương mại Nông lâm thuỷ sản và Nghề muối (Bộ NNPTNT) cho biết, công tác quy hoạch và triển khai quy hoạch sản xuất mía đường ở ĐBSCL còn nhiều hạn chế. Vị trí xây dựng một số nhà máy đường chưa phù hợp, vùng nguyên liệu của nhà máy được đặt ở vùng đất khô cằn, phân tán và đan xen với cây trồng khác nên gặp khó khăn trong vận chuyển nguyên liệu như các nhà máy đường Bến Tre, Kiên Giang, Cà Mau... Hệ quả là các nhà máy này không có đủ nguyên liệu cho chế biến, khả năng phải di dời, một số nhà máy khác phải mua nguyên liệu từ vùng xa. Công tác đầu tư giống mía cũng chưa có chuyển biến rõ rệt, thâm canh chưa hợp lý, cơ giới hoá còn rất thấp, đặc biệt là trong khâu thu hoạch, khiến tổn thất trong khâu này còn lớn. Ngoài ra, việc sản xuất các phế phẩm, phụ phẩm từ cây mía vẫn chưa được quan tâm đúng mức.
Tương tự với cây điều, tuy được xác định là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực (nhiều nhất là ở Long An), nhưng hiện nay mặt hàng nông sản này đối mặt với nhiều khó khăn do thiếu nguồn nguyên liệu chế biến (khoảng 50%), thiếu lao động ở các doanh nghiệp (từ 15-20%). Nguyên nhân là do quy hoạch diện tích trồng điều chưa được các địa phương quan tâm đầu tư.
Quy hoạch sản xuất gắn với liên kết vùng
Nông dân thu hoạch mía ở thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Ảnh: Huỳnh Xây
Về các sản phẩm nông sản chủ lực vùng ĐBSCL, ông Trần Hữu Hiệp - Ủy viên chuyên trách kinh tế, Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, cho biết, đã đến lúc chúng ta không cần tự hào là vựa lúa, cường quốc số 1, số 2 thế giới về xuất khẩu gạo, cá tra hay trái cây nữa, bởi thực tế cho thấy những người làm ra sản phẩm này cuộc sống vẫn còn nhiều khó khăn. Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên thuận lợi cho ngành trồng trọt, chăn nuôi, các sản phẩm chủ lực như lúa gạo, trái cây, thuỷ sản cần được "chế biến" thành những "chiếc bánh" ngon hơn để những người làm ra nó thu lãi hợp lý hơn.
Cũng theo ông Hiệp, trong điều kiện cạnh tranh và thời tiết thay đổi thất thường như hiện nay, các cơ quan chuyên môn cần tập trung cải tạo giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng và giá trị cao, tăng cường năng lực hợp tác nghiên cứu khoa học giữa các vùng miền khác trong cả nước. Đưa nhanh các công nghệ mới vào tất cả các khâu sản xuất nông sản, xây dựng các khu nông nghiệp công nghệ cao dựa vào những tiến bộ kỹ thuật mới. "Cần quy hoạch lại vùng sản xuất theo liên kết vùng, gắn với nhu cầu thị trường. Quá trình này phải chú trọng đến việc cải tiến đổi mới cơ chế chính sách nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chủ lực" - ông Hiệp nói.
Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam cho rằng, thời gian có có tình trạng một số tiểu vùng luôn độc canh cây lúa, các loại nông sản khác có phát triển nhưng chưa tương xứng, hoặc phá vỡ quy hoạch khiến mất cân đối cung - cầu. Vì vậy, thời gian tới việc liên kết phát triển giữa các địa phương là rất cần thiết, sẽ giúp các tỉnh giải quyết được an ninh về nguồn nước, có nhiều cơ hội kêu gọi đầu tư, điều tiết thị trường... Trong mối liên kết này, phải đảm bảo không có sự tranh chấp nguồn nước, cũng như thay đổi tập quán sản xuất của người dân. Nếu chúng ta vẫn phát triển cây trồng nhỏ lẻ, manh mún thì sẽ không xây dựng được thương hiệu nông sản.
Theo Danviet
Loay hoay xác định nông sản chủ lực: Không lo được đầu ra sản phẩm Mặc dù từng đầu tư khá lớn nhưng vài năm trở lại đây, nhiều người trồng mía ở tỉnh Hậu Giang đã không còn mặn mà với loại cây chủ lực này, từ đó kéo theo diện tích sản xuất mía giảm (từ 15.000ha xuống còn 11.000ha). Thực trạng tiêu thụ khó khăn của cây mía cũng là của nhiều cây trồng chủ...