Ba lý giải về tên gọi Sài Gòn
Thị trấn giữa rừng, Vùng đất ăn nên làm ra, Cống phẩm của phía Tây… là những cách lý giải của học giả về tên gọi thành phố hơn 300 tuổi.
Từ đầu thế kỷ XX người Pháp đã nỗ lực tìm hiểu nguồn gốc của địa danh Sài Gòn – thành phố mà họ muốn biến thành “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Nhưng cái tên dung dị, thân quen ấy kể cả người Việt cũng đều không rõ nghĩa.
Sau hơn 300 năm hình thành, phát triển, nhiều thế hệ học giả vẫn chưa thống nhất về nguồn gốc tên gọi này. Trong rất nhiều công trình nghiên cứu, Sài Gòn có 3 cách lý giải được đánh giá cao nhất.
Tàu bè ra vào sông Sài Gòn thế kỷ 19, thành phố còn hoang vu, nhiều rừng rậm. Ảnh: Flickr
Thị trấn giữa rừng
Căn cứ vào từ “Sài” nghĩa “củi” và “Gòn” tức “cây bông gòn”, quyển ại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của cho nghĩa của Sài Gòn là “củi gòn”.
Dựa theo thông tin này, học giả Trương Vĩnh Ký nói rằng tên gọi Sài Gòn được phiên âm từ “ Prei Nokor” của người Khmer. Giả thuyết này được ông Ký đưa ra trong giáo trình “Địa lý Nam Kỳ” của mình. Một loạt cách gọi tương tự về địa danh Việt – Miên ở Nam Kỳ phiên âm giống vậy như Cần Giờ là từ “Kanco”, Cần Giuộc là “Kantuộc”, Gò Vấp là “Kompăp”…
“Prei” theo tiếng Khmer nghĩa là “rừng”, còn “Nokor” là “thị trấn”. Như vậy “Prei Nokor” nghĩa là một “thị trấn ở trong rừng”. Nghĩa rộng hơn theo Phạn tự là “lâm quốc”. Vùng này trước đây là đại bản doanh của một Phó vương nước Chân Lạp cũ.
Dần dần, người dân đọc trại từ “Prei” thành “Rai” rồi thành “Sài”. Từ “Nokor” đọc lướt thành “Kor” và từ “Kor” thành ra “Gòn”.
Căn cứ của lý giải này dựa vào việc Prei Nokor xưa kia là rừng rậm có nhiều cây gòn được dân cư sử dụng làm củi. Học giả Trương Vĩnh Ký kể lại rằng, người Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai. Chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ tại đó năm 1885.
Sau Trương Vĩnh Ký, đốc phủ Lê Văn Phát đồng tình lý giải này. Ông cho rằng, không chỉ người Khmer mà người Lào cũng gọi vùng này là “rừng cây gòn” thông qua từ Cai Ngon. Vốn dĩ ngôn ngữ Lào giống tiếng Thái nên Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn.
Tuy nhiên giả thuyết này bị cho là không có căn cứ, vì qua thời gian, không ai tìm ra được dấu tích của một “khu rừng có nhiều cây gòn” tại Prei Nokor cả, mà đó chỉ là suy đoán.
Video đang HOT
Trung tâm của Sài Gòn xưa. Ảnh: Flickr
Vùng đất ăn nên làm ra
Học giả – nhà văn Vương Hồng Sển cho rằng không thể dựa vào ngữ nghĩa hai từ “Sài Gòn” hay “Prei Nokor” để phân tích. Trong cuốn “Sài Gòn năm xưa”, cụ Vương đã dày công tra cứu hàng loạt sách báo Pháp lẫn Việt. Ngoài ra, ông đi thu thập dữ liệu từ dân gian nên rút ra cách lý giải khác.
Theo Vương Hồng Sển, khi người Hoa rời Cù lao Phố (Biên Hòa) vào năm 1773, đã tụ về vùng đất mới Chợ Lớn ngày nay. Họ nhận ra đây là nơi “ăn nên làm ra” cần được củng cố cho thật bền vững. Người Hoa cho đắp thêm bờ kinh cao ráo và kiên cố hơn, và gọi vùng đất này là “Tai-Ngon” hay “Tin-Gan” mà theo Hán Việt là Đề Ngạn.
Đề Ngạn phát âm theo giọng Quảng Đông nghe ra là “Thầy Ngồn” hay “Thì Ngòn”. Và đó chính là âm để gọi vùng đất Chợ Lớn thời ấy. Theo thuyết này của cụ Vương thì âm “Sài Gòn” là từ “Thầy Ngồn”, “Thì Ngòn” mà ra.
Tuy nhiên theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Qúy Đôn viết năm 1776 có dữ kiện “năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ lũy Sài Gòn”… Đây cũng là lần đầu tiên hai từ “Sài Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Điều này chứng tỏ từ “Sài Gòn” có trước thời điểm người Hoa đến Chợ Lớn nên cách lý giải của Vương Hồng Sến không thuyết phục.
Sài Gòn ngày nay sau hơn 300 năm phát triển. Ảnh: Trần Bảo Hòa
Cống phẩm của phía tây
Còn học giả người Pháp Louis Malleret cho rằng Sài Gòn có nguồn gốc từ tiếng “Tây ngòn” – nghĩa là cống phẩm của phía tây (Tây Cống). Tiếng “Tây ngòn” phát âm theo giọng người Hoa thành Sài Gòn.
Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này vì dựa vào dữ kiện lịch sử do Trịnh Hoài ức chép lại. Khi Campuchia bị phân ra cho hai nhà nước thì cả hai vua đều nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor.
Về lý giải này của học giả người Pháp, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng “Tây Cống” chỉ được người Hoa dùng sau này. Ngày trước vùng Chợ Lớn được gọi là Sài Gòn nhưng khi người Pháp chiếm các tỉnh Đông Nam bộ đã gọi vùng Bến Nghé là Sài Gòn vì tên Bến Nghé quá khó đọc với họ.
Nguồn gốc tên gọi Sài Gòn sẽ còn nhiều tranh luận nhưng nhiều học giả nhận xét, việc không rõ thực hư như vậy càng khiến Sài Gòn hơn 300 năm càng thêm huyền bí, hấp dẫn, khơi gợi sự tò mò khi muốn tìm hiểu.
Tên gọi Sài Gòn dù nguồn gốc như thế nào thì tính cách người Sài Gòn vẫn không đổi khác, vẫn là “Anh Hai Nam bộ”, đi trước đón đầu trong nhiều lĩnh vực. Sài Gòn – TP HCM đang chuyển mình phát triển để lấy lại danh xưng một thời “Hòn ngọc Viễn Đông”, là đầu tàu cả nước trong nhiều lĩnh vực.
Sơn Hòa
Theo VNE
Cậu bé lêu lổng thành Tổng trấn quyền uy nhất Sài Gòn xưa
Từ cậu bé ít học, ham chơi, ông Lê Văn Duyệt trở thành đại tướng, mang ấn công hầu, làm "vương" một cõi và được triều đình nể trọng.
Theo Sách Đại Nam liệt truyện, Lê Văn Duyệt sinh năm 1764 trong gia đình nông dân tại Cù Lao Hổ (nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang). Tổ tiên ông có gốc tích ở Quảng Ngãi, sau vào Nam sinh sống. Ông sinh ra đã mang tật kín bẩm sinh (ái nam ái nữ). Thuở nhỏ, không chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, nhất là nuôi gà, đá gà và tụ tập các trẻ trong làng chia phe tập trận đánh giặc.
Tương truyền ông khỏe mạnh, thông minh, giỏi võ thuật. Tuy ít học nhưng ông biết nhiều tuồng tích Tàu, luôn ước ao trở thành hào kiệt như trong truyện xưa. Mới 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã nói "sinh ở thời loạn không dựng cờ đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu".
Năm 17 tuổi, Lê Văn Duyệt may mắn gặp chúa Nguyễn Phúc Ánh, sau đó được tuyển làm Thái giám Nội đình. Nhờ hiểu biết việc binh, ông được chúa Nguyễn tin dùng và được đứng vào hàng tướng lĩnh từ năm 1789. Theo Quốc triều sử toát yếu, năm 1793, Lê Văn Duyệt được Nguyễn Ánh phong làm Thuộc nội Vệ úy bởi "tuy sinh ra là người (thái) giám, (nhưng là) người mạnh dữ mà đánh giỏi, có công tùng chinh". Kể từ đó, chúa Nguyễn thường bàn việc binh với Lê Văn Duyệt.
Năm 1801, tướng quân Lê Văn Duyệt thể hiện tài năng khi chỉ huy đánh tan hải quân Tây Sơn ở cửa Thị Nại (Quy Nhơn). Đây là trận thủy chiến dữ dội nhất, được gọi là "Võ công đệ nhất" trong thời trung hưng của nhà Nguyễn.
Tượng Tả quân Lê Văn Duyệt bằng đồng cao 2,65 mét, nặng 3 tấn được đặt trang trọng trong điện thờ Lăng Ông Bà Chiểu vào tháng 2/2008. Ảnh: Trung Sơn
Khi vua Gia Long lên ngôi, xem Lê Văn Duyệt là Đệ nhất khai quốc công thần và phong chức Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân. Ông được giao làm tổng trấn Gia Định Thành (cai quản 5 trấn: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và An Giang) lần thứ nhất từ 1813 đến 1816; lần thứ hai từ 1820 đến lúc qua đời.
Theo các sử gia, Lê Văn Duyệt có khả năng về quân sự lẫn chính trị, ngoại giao; là một vị quan nghiêm khắc, thanh liêm. Dù quyền hành lớn, song ông không hiếp đáp kẻ dưới hoặc tìm cách tư túi riêng. Quân lính của ông rất có kỷ luật, không hề phá phách, cướp bóc... Có uy quyền ai ai cũng kính phục, ông được gọi là "Ông Lớn Thượng". Các nước lân cận đương thời đều sợ oai phong gọi ông là "Cọp Gấm Đồng Nai".
Tổng trấn Gia Định Thành đã cho đắp đường, đào kênh, củng cố thành lũy. Dưới sự cai trị của ông, thành phát triển vượt bậc về kinh tế, xã hội, văn hóa và quân sự trải dài từ Bình Thuận tới Cà Mau, Hà Tiên. Tài năng và công đức của ông được người dân Nam Bộ hết lòng tôn kính, coi ông như một vị thần.
Đánh giá về ông, Crawfurd - dẫn đầu phái đoàn của nước Anh từng đến yết kiến Lê Văn Duyệt năm 1822 - ghi lại: "Tổng trấn rất nhân từ, tha cả bọn giặc, bọn phỉ, bọn trộm cướp ăn năn. Nhưng ông lại rất tàn bạo với bọn cố tình không chịu quy phục triều đình. Chưa ở đâu kỷ cương phép nước được tôn trọng như ở đây. Một vị quan nhỏ ra đường ghẹo gái cũng bị cách chức lưu đày. Một đứa con vô lễ chửi mẹ, Tổng trấn biết được cũng bị phạt rất nặng...".
"Con người này ít học nhưng có được cái nhìn cởi mở hơn nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, làu kinh sử của Khổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông", Crawfurd ghi.
Cổng vào Lăng Ông ở đường Vũ Tùng, quận Bình Thạnh, TP HCM. Ảnh: Trung Sơn
Năm 1832, tướng quân Lê Văn Duyệt mất sau cơn bệnh, thọ 69 tuổi. Ông được chôn trên gò đất cao ở phía tây thành Gia Định (Lăng Ông ở Bà Chiều, quận Bình Thạnh).
Theo sử cũ, khi còn sống, Lê Văn Duyệt nắm giữ binh quyền rất lớn nên vua Minh Mạng vốn thù ghét nhưng không làm gì được. Nguyên nhân là do trước đây ông không ủng hộ lập Minh Mạng làm vua. Lại thêm, Tả tướng quân từng được vua Gia Long cho quyền "Nhập triều bất bái" (vào triều không cần phải lạy) nên sau này ông không chịu quỳ lạy khiến vua Minh Mạng không vừa ý.
Việc ông dùng quyền "tiền trảm hậu tấu" mà vua Gia Long ban cho để xử tử Huỳnh Công Lý - phó tổng trấn Gia Định, cha của bà phi được vua Minh Mạng sủng ái - khiến hiềm khích giữa Lê Văn Duyệt và vua càng nhiều hơn. Vì vậy, ngay sau khi ông mất, để tập trung quyền lực, Minh Mạng bãi bỏ hai chức vụ Tổng trấn Bắc Thành và Tổng trấn Gia Định Thành. Tất cả trở thành tỉnh trực thuộc triều đình Huế. Tại mỗi tỉnh có chức Tổng đốc, Tuần vũ, Bố chánh, Án sát sứ và Lãnh binh cai quản.
Khi đến nhậm chức Bố chánh tỉnh Gia Định, Bạch Xuân Nguyên tuyên bố thừa hành mật chỉ của triều đình truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt. Ông bị cho can tội tham nhũng, lạm quyền, có mưu đồ tạo phản (việc tu sửa thành Bát Quái và đóng tàu). Nhiều thuộc hạ của Lê Văn Duyệt bị bắt giam, trong đó có con nuôi là Lê Văn Khôi. 16 người nhà của Lê Văn Duyệt bị giết.
Mộ phần Tả quân Lê Văn Duyệt và phu nhân sau gần 170 năm. Ảnh: Trung Sơn
Chính việc này đã dẫn đến việc Lê Văn Khôi dấy binh nổi loạn, chiếm thành Gia Định trong suốt 3 năm (1833-1835). Sau sự biến, lấy cớ Lê Văn Duyệt đã dung dưỡng Khôi, vua Minh Mạng cho san bằng mồ mả ông, xiềng xích lại, dựng bia đá sỉ nhục với tám chữ "Quyền yểm Lê Văn Duyệt phục pháp xử" (nơi hoạn quan Lê Văn Duyệt chịu tội).
Ông chết vẫn bị kết án bảy tội xử trảm (chém), hai tội xử giảo (thắt cổ), một tội phát quân. Tại Huế, những người trong dòng họ ông, từ 15 tuổi trở lên, bị xử trảm hàng loạt. Thân sinh ông bị tước phẩm hàm, bia mộ bị đục xóa, ruộng điền bị tịch thu, nhà thờ họ tộc ở Quảng Ngãi bị đưa voi về tàn phá.
Năm 1841, vua Thiệu Trị ban lệnh tha tội cho người thân của Lê Văn Duyệt. 8 năm sau, vua Tự Đức cho nhổ cây bia có khắc 8 chữ, cho thân nhân sửa sang, xây đắp mộ phần Lê Văn Duyệt. Đến năm 1868, vua mới phục nguyên hàm cho ông là Tả Quân. Sau này, khi phu nhân của ông là bà Đỗ Thị Phẫn (vua Gia Long ban cho để hầu hạ ông) qua đời cũng được chôn cất bên cạnh phần mộ của Tả Quân.
Qua bao thăng trầm cùng thời gian, Khu lăng mộ Tả Quân Lê Văn Duyệt trở thành địa điểm văn hóa, tâm linh với công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật đặc sắc mang đậm nét truyền thống của vùng đất Nam bộ. Khu lăng mộ được công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia năm 1989.
Sau này, nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng cũng nhận định: "Lê Văn Duyệt có công, bằng chứng là nhân gian ngưỡng mộ và kính trọng ông... Chúng ta nhận thức rằng sự tôn trọng kia liên quan chủ yếu đến công lao của ông đối với vùng đất mà ông trấn nhậm".
Hiện, mỗi ngày có rất nhiều người đến Lăng Ông để thắp hương, khấn vái. Đặc biệt trong ba ngày Tết, hàng chục nghìn người đổ về đây hành lễ, trong đó có rất nhiều người Hoa ở Chợ Lớn. Ban đầu người dân vùng Sài Gòn Chợ Lớn đến lăng mộ Tả quân để tưởng niệm công ơn của ông, nhưng những thế hệ sau tin rằng lăng mộ rất linh thiêng nên đến đề cầu an và cầu phước.
Trung Sơn
Theo VNE
Tướng cướp nức danh thành người đứng đầu Sài Gòn xưa Chuyên cướp ngân hàng, tiệm vàng, Bảy Viễn 3 lần vượt ngục Côn Đảo trước khi quy hàng Pháp để leo đến chức Tổng trấn Sài Gòn và là em kết nghĩa của vua Bảo Đại. Trong giới giang hồ Sài Gòn xưa, cậu Hai Miêng, Đại Cathay, Huỳnh Tỳ... được nhiều người nhắc đến nhưng người thành công nhất về địa vị,...