B-17, oanh tạc cơ giáng đòn chí mạng vào phát xít Đức
Từng ném hơn nửa triệu tấn bom vào các mục tiêu phát xít Đức, oanh tạc cơ B-17 được coi là vũ khí biểu tượng, góp công lớn vào chiến thắng của phe Đồng minh.
Tháng 8/1934, không quân Mỹ quyết định đặt hàng một mẫu máy bay ném bom nhiều động cơ nhằm thay thế Martin B-10 đã lạc hậu, với yêu cầu phải mang được lượng bom lớn ở độ cao 3 km, bay với vận tốc tối đa ít nhất là 380 km/h, nhằm tăng cường sức mạnh cho các căn cứ tại Hawaii, Panama, và Alaska, theo Aviations militaires.
Hãng Boeing trúng thầu với nguyên mẫu 299 (tên gọi ban đầu của B-17), được thiết kế dựa trên phiên bản máy bay ném bom thử nghiệm XB-15 và máy bay vận tải cỡ lớn lúc đó là Boeing 247.
B-17 có khả năng mang 2.200 kg bom trên 2 giá trong khoang bom phía sau khoang lái và được trang bị 5 khẩu súng máy 7,62 mm để tự vệ.
Trong Thế Chiến II, B-17 được trang bị cho 32 phi đội đóng ở nước ngoài, đỉnh điểm là vào tháng 8/1944 với 4.574 chiếc thuộc không quân Mỹ khắp thế giới.
Sau khi không chứng tỏ được tính hiệu quả trên các mặt trận tại Thái Bình Dương, các tướng lĩnh không quân Mỹ và Anh nhóm họp vào tháng 1/1943, đề ra chiến thuật mới cho B-17 là ném bom các mục tiêu, kho tàng trên lãnh thổ Đức, nhằm làm suy yếu nền công nghiệp của phát xít.
Tuy nhiều lần phải hứng chịu thiệt hại do gặp phải sự kháng cự quyết liệt của lực lượng phòng không không quân địch, trong suốt Thế chiến II, các máy bay ném bom B-17 đã ném tổng cộng 640.000 tấn bom, chiếm gần một nửa trong số 1,5 triệu tấn mà toàn bộ không quân Đồng minh ném xuống lãnh thổ Đức Quốc xã.
Theo Aviations militaires, chính nhờ sự thay đổi chiến thuật này, các oanh tạc cơ B-17 đã phát huy được tác dụng đúng thời điểm, giúp Đồng minh giáng những đòn chí mạng vào nền công nghiệp quốc phòng Đức, vốn được trùm phát xít Adolf Hiler đặt trọn niềm tin, góp phần làm xoay chuyển cán cân sức mạnh giữa hai bên.
Video đang HOT
Điểm mạnh của B-17 là có tầm bay cao, có sức phá hủy lớn trong khi khả năng phòng thủ vẫn được đảm bảo. Những câu chuyện và hình ảnh chiếc B-17 sống sót trở về dù bị hư hại nặng trong chiến đấu được lan truyền càng nâng cao tính biểu tượng của mẫu oanh tạc cơ này.
Chứng kiến các nhà máy công nghiệp bị hủy diệt, tiềm lực quốc phòng có nguy cơ bị kiệt quệ, tư lệnh không quân Đức Hermann Goering phải thốt lên rằng: “Nếu không làm gì đó để tấn công các nhà máy sản xuất máy bay B-17 của Mỹ, nước Đức chắc chắn sẽ thất bại”.
Goering ra lệnh cho một kỹ sư gốc Áo là Eugen Sanger thiết kế một loại máy bay ném bom tầm xa có khả năng tấn công chớp nhoáng nước Mỹ trong thời gian ngắn nhất. Tuy nhiên, dự án này được đánh giá bất khả thi và nhanh chóng bị đình chỉ.
Nguyễn Hoàng
Theo VNE
Nữ điệp viên một chân khiến mật vụ phát xít Đức bất lực
Phát xít Đức coi Virginia Hall Goillot là gián điệp nguy hiểm cần thủ tiêu, nhưng luôn thất bại trong việc truy bắt, bất chấp việc bà chỉ có một chân.
Virginia Hall khi nhận huân chương sau chiến tranh. Ảnh: BBC.
Trong Thế chiến II, mật vụ phát xít Đức (Gestapo) truy nã ráo riết một nữ điệp viên được mô tả "nguy hiểm nhất phe Đồng minh, cần phải tìm và tiêu diệt". Đó là Virginia Hall Goillot, nữ anh hùng gián điệp trong Thế chiến II, từng cứu nhiều người thuộc phe Đồng minh, theo Smithsonianmag.
Virginia "Dindy" Hall Goillot sinh ngày 6/4/1906 ở Baltimore, Mỹ, trong một gia đình giàu có. Cô có sở thích nam tính như săn bắn và cưỡi ngựa. Lớn lên, cô thành thạo tiếng Pháp, Italy, Đức nhờ học ở đại học Radcliffe và Barnard danh giá. Năm 1931, Hall trở thành nhân viên Cơ quan lãnh sự Đại sứ quán Mỹ ở Warsaw, Ba Lan sau khi hoàn thành nghiên cứu ở châu Âu.
Một năm sau, cô tình cờ bắn vào chân trái mình trong một lần đi săn. Vết thương quá nặng buộc Hall phải cắt bỏ chân trái quá gối. Sau khi bình phục, cô sử dụng chân giả bằng gỗ và gọi đùa nó là "Cuthbert".
Cũng vì khuyết tật một chân nên Hall phải từ bỏ công việc ở Bộ Ngoại giao và chuyển đến Paris. Lúc này, các cuộc giao tranh nhỏ giữa Đức và Pháp nổ ra trước Thế chiến II. Hall tham gia đội hỗ trợ, trở thành lái xe cứu thương nơi tiền tuyến của quân đội Pháp.
Ngày 10/5/1940, Đức phát động cuộc xâm lược toàn diện, quân Pháp thất thủ hơn một tháng sau đó. Hall chuyển đến Anh, nơi cô kiếm được việc làm ở Đại sứ quán Mỹ.
Sống sót qua các trận tập kích đường không nhằm vào London, Hall quyết định tham gia vào cơ quan tình báo Anh (SOE). Cô được huấn luyện phá hoại, phương thức gián điệp, liên lạc và vũ khí từ tháng 1/1941. Trong quá trình hoạt động, Hall mang nhiều tên giả như Marie Monin, Germaine, Diane, Marie of Lyon, Camille và Nicolas, trong khi người Đức gọi cô là "quý bà khập khiễng".
Hall trở thành nữ gián điệp đầu tiên được SOE điều tới Pháp. Trong vòng hai năm, cô làm gián điệp ở Lyon dưới vỏ bọc là một cộng tác viên cho tờ New York Post. Sau khi Mỹ tham chiến, cô buộc phải ẩn mình. Hall tiếp tục công việc thêm 14 tháng, bất chấp khả năng bị tra tấn và giết chết nếu rơi vào tay người Đức.
Trong thời gian này, cô hỗ trợ việc thả dù cung cấp vũ khí, hàng tiếp tế và tài chính cho phong trào kháng chiến. Hall còn tham gia nhiệm vụ trinh sát, phá hoại, cũng như cứu hộ phi công Đồng minh bị bắn rơi, giúp họ ra khỏi nước Pháp hay giải cứu tù binh.
Dù treo thưởng với số tiền lớn, mật vụ Đức không thể nào bắt được Hall. Cô chỉ rời đi sau khi quân Đồng minh đổ bộ xuống Bắc Phi và quân Đức tràn vào nước Pháp. Để trốn thoát, cô phải đi bộ qua các ngọn núi Pyrennes để sang Tây Ban Nha. Đó là nhiệm vụ khó khăn với một người bị cụt chân, phải đi lại bằng chân giả trong mùa đông lạnh giá.
Giấy tờ của Virginia Hall trước năm 1940. Ảnh: Alchetron.
Khi đến Tây Ban Nha, vì không có visa nên Hall bị tống giam vào nhà tù Figueres trong 6 tuần, trước khi được thả nhờ lãnh sự Mỹ can thiệp.
Ngày 10/3/1944, với sự chấp thuận của SOE, Hall gia nhập Phòng tình báo Chiến lược Mỹ (OSS), tổ chức tiền thân của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA). Quay trở lại London, cô được huấn luyện trở thành liên lạc viên radio và trở lại vùng Haute-Loire của Pháp, nơi cô đóng giả làm một nhân viên bán sữa để che giấu thân phận. Hall luôn thay đổi địa điểm báo cáo về động thái chuyển quân của phát xít Đức để tránh bị mật vụ Gestapo phát hiện.
Trước khi cuộc đổ bộ ở Normandy diễn ra, Hall tổ chức phong trào kháng chiến địa phương nhằm phá hủy các cây cầu, tuyến đường sắt và tiền đồn quân sự để kéo sự chú ý khỏi bờ biển. Điều đó khiến phát xít Đức khó lòng phán đoán chính xác nơi cuộc đổ bộ thực sự diễn ra.
Ngày 26/8, quân Đức ở Le Chambon đầu hàng lực lượng của Hall ở miền nam nước Pháp. Ngày 4/12, Hall điều phối nhiệm vụ đặc biệt thả dù tiếp tế cho quân Đồng minh nhằm tiêu diệt sự phản kháng cuối cùng của Đức ở Pháp. Trong nhiệm vụ này, cô gặp trung úy Paul Goillot, một người Mỹ gốc Pháp, hai người cưới nhau vào năm 1950.
Ngày 25/9, thủ đô Paris được giải phóng. Hall được yêu cầu trở về quê nhà, nhưng cô từ chối và tình nguyện đến Áo để tiếp tục chiến đấu. Ngày 25/4/1945, cô tới Thụy Sĩ cùng các tình nguyện viên khác, chờ thời điểm thích hợp để đến nước Áo. Tuy nhiên, một tháng sau Đức đầu hàng, chiến dịch này bị hủy bỏ.
Virginia Hall là nữ thường dân duy nhất trong Thế chiến thứ hai được nhận Huân chương Chữ thập danh giá. Năm 1951, cô gia nhập CIA và làm việc cho đến khi nghỉ hưu năm 1966.
Tháng 12/2006, hơn 20 năm sau khi Hall qua đời, cô được đại sứ Anh và Pháp vinh danh tại lễ tưởng niệm ở Washington, Mỹ. Cựu tổng thống Pháp Jacques Chirac gửi thư gọi Hall là "người anh hùng thực sự của phong trào kháng chiến Pháp".
"Trong quãng thời gian ở Pháp, cô luôn phải đối mặt với nguy cơ bị bắt giữ, luôn ý thức rõ được hậu quả của việc này. Hall là người phụ nữ có lòng dũng cảm phi thường", Peter Earnest, giám đốc điều hành Bảo tàng Gián điệp Quốc tế ở Washington, nhấn mạnh.
Duy Sơn
Theo VNE
Tiêm kích nhanh nhưng không nguy hiểm của phát xít Đức Tiêm kích Me-163 trang bị động cơ phản lực lao đi quá nhanh khiến phi công rất khó ngắm bắn oanh tạc cơ bay chậm của phe Đồng minh. Một chiếc tiêm kích phản lực Me-163 của phát xít Đức. Ảnh: AAS Những năm cuối Thế chiến II, với hy vọng xoay chuyển cục diện chiến trường, phát xít Đức chế tạo ra...