Án nhẹ, khó răn đe lái xe vi phạm
Ý thức chấp hành Luật Giao thông của một bộ phận người dân còn quá kém, điều này là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới những vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, hiện nay, công tác điều tra, xử lý đối với các vụ án TNGT trên vẫn còn nhiều bất cập, trong khi đó khung hình phạt quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe.
Công tác khám nghiệm hiện trường có vai trò đặc biệt quan trọng
để xác định nguyên nhân xảy ra tai nạn
Tai nạn nhiều, xử phạt ít
Phân tích những nguyên nhân dẫn tới các vụ TNGT, Trung tá Nguyễn Văn Tài – Đội trưởng Đội Tuyên truyền, khám nghiệm điều tra TNGT đ.ánh giá: “Hầu hết là do ý thức chấp hành pháp luật, Luật Giao thông kém của người điều khiển phương tiện, người tham gia giao thông”. Chứng minh cho nhận định của mình, Trung tá Nguyễn Văn Tài dẫn chứng, ngay như thời điểm đầu năm 2013, tình hình TNGT ở các huyện ngoại thành Hà Nội tăng đột biến. Qua khảo sát, nguyên nhân dẫn tới các vụ TNGT trên không phải là do hệ thống cơ sở hạ tầng yếu mà là ý thức kém của người dân. Với tốc độ đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới, nhiều tuyến đường liên huyện, liên xã đã được trải nhựa, bê tông hóa. Tại một số tỉnh lộ đi qua các huyện như Phúc Thọ, Ba Vì, Sơn Tây, mặt đường đã được nâng cấp, trải rộng, nhiều làn xe. Nhưng đáng buồn là hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng đẹp, tốt lên lại tỷ lệ thuận với những vụ TNGT. Chỉ huy của Đội CSGT CAH Ba Vì cũng chung nhận định: Nhiều vụ TNGT xảy ra do người điều khiển phương tiện không có bằng lái; chở người quá quy định và đi với tốc độ cao. Có nhiều “điểm đen” lại hình thành ở ngay chính những đoạn đường đã được sửa chữa, mở rộng.
Cũng theo Phòng CSGT, trong năm 2012, trên địa bàn thành phố đã xảy ra tới 777 vụ TNGT làm 619 người c.hết và 397 người bị thương. Mặc dù số vụ TNGT nghiêm trọng xảy ra nhiều nhưng trong cả năm CATP Hà Nội mới khởi tố vụ án, khởi tố bị can 196 vụ TNGT nghiêm trọng với 181 bị can. Con số này chỉ đạt 34% so với tổng số vụ TNGT xảy ra. Trong tổng số 196 vụ TNGT nghiêm trọng đã được khởi tố vụ án, khởi tố bị can, Phòng CSGT điều tra, thụ lý giải quyết 19 vụ, số còn lại hầu hết được Cơ quan CSĐT ở các quận, huyện, thị xã hoặc Phòng CSHS xử lý.
Số người gây TNGT được đưa ra xét xử hình sự chiếm tỷ lệ rất nhỏ
so với số vụ TNGT xảy ra
Video đang HOT
Cần thiết nâng mức hình phạt
Đề cập tới nguyên nhân dẫn tới “nghịch lý” tai nạn nhiều nhưng việc đưa ra truy tố, xét xử hình sự còn quá ít, đại diện Phòng CSGT cho biết: Theo phân cấp điều tra xử lý, hiện Phòng CSGT chỉ thụ lý điều tra những vụ TNGT liên quan đến người nước ngoài và một số trường hợp đặc biệt. Số vụ TNGT theo diện còn lại nếu xảy ra ở địa bàn nào, cơ quan CSĐT ở quận, huyện hoặc thị xã đó phải có trách nhiệm thụ lý. Nếu TNGT có dấu hiệu tội phạm hình sự sẽ được chuyển sang Cơ quan CSĐT làm rõ. Trong hơn 777 vụ TNGT khiến 619 người c.hết của năm 2012, có tới 70% số vụ xảy ra ở huyện ngoại thành, trên những tuyến quốc lộ. Còn chỉ huy của Đội Điều tra Tổng hợp CAQ Cầu Giấy cho hay: Số vụ TNGT được đưa ra truy tố trách nhiệm hình sự hiện nay còn hạn chế cũng bởi nhiều nguyên nhân khách quan. Cụ thể, quá trình giải quyết vụ án vi phạm quy định về ATGT ngoài những khó khăn trong công tác khám nghiệm hiện trường còn có rất nhiều vụ việc nạn nhân đã từ chối giám định thương tích, sau đó hai bên tự thỏa thuận giải quyết với nhau. Với những trường hợp này, cơ quan điều tra không có căn cứ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự để điều tra, xử lý đối tượng trước pháp luật.
Trên thực tế có những vụ TNGT đặc biệt nghiêm trọng gây c.hết người. Tuy nhiên, nguyên nhân gây TNGT lại do chính nạn nhân nên cũng không thể khởi tố vụ án, khởi tố bị can để đưa ra xét xử được. Ngay như vụ hai xe khách đ.âm n.hau khiến 12 người c.hết và 60 người bị thương ở Khánh Hòa vừa qua cũng không khởi tố vụ án, khởi tố bị can do lái xe gây tai nạn đã c.hết. Bên cạnh đó, có vụ TNGT cũng do lỗi của nạn nhân nhưng sau đó hai bên tự thỏa thuận bồi thường dân sự. Nạn nhân hoặc gia đình người bị hại không đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trung tá Nguyễn Văn Tài cho biết: Hầu hết các bị cáo trong những vụ TNGT thường tự nguyện bồi thường trước cho gia đình người bị hại. Trong khi đó, nhiều gia đình bị hại cũng nghĩ rằng dù sao người c.hết cũng không sống lại được, cùng với sự bồi thường và năn nỉ của lái xe, họ thường làm đơn xin tòa xử bị cáo mức án nhẹ hoặc xin cho được hưởng án treo. Điều này dẫn tới tình trạng “dân sự hóa các vụ án hình sự liên quan đến TNGT”. Đặc biệt hiện nay khung hình phạt cao nhất đối với các vụ án TNGT dẫn tới c.hết người cũng chỉ ở mức 15 năm tù. Rõ ràng, mức xử phạt này không đủ sức răn đe, khiến cho các lái xe vi phạm “nhờn” luật.
Đồng quan điểm với đại diện Phòng CSGT, Trung tá Phùng Tuấn Cường – Đội trưởng Đội Điều tra án TNGT, Phòng CSHS cho hay: Khung hình phạt trên là quá nhẹ đối với những lái xe gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, khiến nhiều người t.hiệt m.ạng. Chưa hết, nhiều tòa án lại xử bị cáo hình phạt dưới khung và cũng không cấm lái xe hành nghề trong một thời gian nhất định khi mãn hạn tù. Có những vụ TNGT xảy ra một số trường hợp lái xe gây tai nạn còn được hưởng án treo sau khi đã được sự “hậu thuẫn” của chính gia đình nạn nhân. Theo Trung tá Phùng Tuấn Cường, nhằm xử lý nghiêm các lái xe vi phạm, tạo sự răn đe, trong công tác điều tra, truy tố và xét xử án TNGT, bên cạnh nâng cao khung hình phạt, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phối hợp chặt chẽ trong việc xử lý tin báo tố giác tội phạm liên quan đến các vụ TNGT, đồng thời làm tốt công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm t.ử t.hi, đặc biệt chú ý đến các dấu vết, vật chứng, sơ đồ hiện trường, lấy lời khai của người làm chứng. Kinh nghiệm cho thấy, cần đấu tranh ngay với người gây tai nạn để làm rõ ý thức chủ quan của họ và khởi tố vụ án, khởi tố bị can khi có đủ căn cứ. Đối với những vụ TNGT có dấu hiệu tội phạm hình sự cần làm rõ vai trò của các bị can trong vụ án có đồng phạm, xem xét kỹ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử lý đúng người, đúng tội.
Theo ANTD
Thêm biện pháp ngăn chặn trước khi khởi tố bị can tham nhũng
Bộ Công an đề xuất bổ sung quy định, cho phép cơ quan điều tra áp dụng biện pháp ngăn chặn cần thiết và biện pháp nghiệp vụ trinh sát trước khi khởi tố bị can về các tội tham nhũng, giống như đối với tội phạm m.a t.úy, tội phạm an ninh quốc gia.
Trả lời chất vấn của cử tri các tỉnh Phú Yên, Lâm Đồng và Quảng Ngãi về việc công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng chưa đạt kết quả cao, lãnh đạo Bộ Công an thừa nhận, kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được mong mỏi của người dân. Tình hình tội phạm tham nhũng vẫn diễn ra phức tạp, nhất là trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai và trong các tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước, như vụ Vinashin, Vinalines...
Bộ Công an phân trần nhiều khó khăn, vướng mắc đối với cơ quan điều tra trong việc phòng chống tham nhũng. Những "người trong ngành" đ.ánh giá, các vụ án tham nhũng rất phức tạp, liên quan đến chủ thể là những người có chức vụ, quyền hạn, phương thức thủ đoạn phạm tội rất tinh vi. Cán bộ "dính chàm" lại thường có mối quan hệ xã hội rộng, có kiến thức chống lại các biện pháp phát hiện, đấu tranh của các cơ quan bảo vệ pháp luật nên việc phát hiện, điều tra, xử lý rất khó khăn, phải thực hiện rất thận trọng.
"Các vụ án tham nhũng được khởi tố chủ yếu từ công tác nắm tình hình và xác minh của cơ quan điều tra. Cơ quan giám sát, cơ quan quản lý cấp trên, các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước đều không tự mình phát hiện được vụ tham nhũng lớn nào chuyển cơ quan điều tra" - văn bản trả lời chất vấn của cử tri nêu rõ.
Ngoài ra, Bộ Công an cũng than khó trong việc điều tra các vụ án tham nhũng có yếu tố nước ngoài gặp nhiều khó khăn vì Việt Nam chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp với nhiều quốc gia, do đó công tác điều tra chủ yếu dựa trên quan hệ có đi có lại giữa các cơ quan tư pháp các nước. Việc ủy thác điều tra và tiếp nhận kết quả ủy thác điều tra phải phụ thuộc vào nước ngoài nên công tác điều tra bị kéo dài.
Một nguyên nhân khách quan khác, Bộ Công an cho rằng hệ thống các quy định pháp luật hình sự về xử lý tội phạm tham nhũng còn thiếu và chưa đồng bộ, không thống nhất, nhất là các hướng dẫn của các cơ quan chức năng, từ đó dẫn đến cách hiểu và vận dụng khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ đó, Bộ Công an cho biết sẽ tham mưu, đề xuất Chính phủ báo cáo Quốc hội, UB Thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm tham nhũng.
Trước mắt, Bộ Công an tập trung nghiên cứu sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng theo hướng cho phép Cơ quan điều tra được tiến hành các biện pháp ngăn chặn cần thiết và các biện pháp nghiệp vụ trinh sát khi có tài liệu đối tượng tham nhũng trước khi khởi tố bị can như trong đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội phạm về m.a t.úy.
Ngăn chặn tội phạm bỏ trốn trước khi khởi tố như trường hợp Dương Chí Dũng là yêu cầu cấp thiết đặt ra. (Ảnh minh họa)
Trực tiếp hơn, cơ quan này "hứa" sớm ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng quy định các tội phạm tham nhũng thể hiện trong Bộ Luật hình sự 1999. Nhiều nội dung khác vẫn chờ văn bản dưới luật như việc lượng hoá cụ thể các tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; hướng dẫn áp dụng các tình tiết dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm, lợi ích vật chất khác, số lượng lớn, giá trị lớn, tư lợi hoặc động cơ cá nhân khác; xác định hành vi phạm tội của các tội phạm xâm phạm tài sản trong các doanh nghiệp có cổ phần của Nhà nước.
Ngoài ra, Bộ Công an đề xuất nghiên cứu sửa đổi Điều 7 Luật Báo chí theo hướng quy định ngoài Chánh án TAND, Viện trưởng VKSND, ngay cả Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp cũng có quyền yêu cầu cơ quan báo chí cung cấp nguồn tin đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Điều 7 luật Báo chí hiện hành quy định phóng viên, nhà báo và cơ quan báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng VKSND hoặc Chánh án TAND cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm trọng" (chỉ được truy nguồn tin để phục vụ việc truy tố, xét xử một vụ án hình sự có tội danh rơi vào khung hình phạt từ 7 năm tù trở lên).
Việc đề xuất "nới" hơn quyền truy vấn nguồn tin của báo chí đã từng gây tranh luận khi Quốc hội bàn thảo việc sửa luật Phòng Chống tham nhũng trong năm 2012.
Khi đó, có rất nhiều ý kiến "can gián" hướng nới quyền cho cả cơ quan điều tra, thanh tra, kiểm tra Đảng... được truy vấn nguồn tin của báo chí với cảnh báo việc này có khả năng dẫn tới nguy cơ tiết lộ danh tính và thông tin cá nhân của người tố cáo tham nhũng, có thể gây nguy hiểm, đe dọa đến sự an toàn cho người tố cáo.
Nhiều chuyên gia cũng lên tiếng cho rằng, nguyên tắc báo chí không tiết lộ nguồn tin là quy định phổ biến trên toàn thế giới. Bảo vệ nguồn tin là pháp lý, đạo lý nghề nghiệp. "Nới" quy định như vậy có khả năng làm phóng viên, nhà báo bị buộc phải vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp, gây khó khăn cho hoạt động báo chí, đồng thời gây lo lắng, bất an, nhụt chí cho người tố cáo.
Từ những tranh luận gay gắt đó, cơ quan soạn thảo luật Phòng chống tham nhũng sửa đổi (Thanh tra Chính phủ) đã rút lại đề xuất thay đổi này, giữ nguyên quy định hiện hành. Theo đó, vẫn chỉ có Viện trưởng VKSND và Chánh án TAND có quyền yêu cầu phóng viên, nhà báo, cơ quan báo chí tiết lộ nguồn tin phục vụ việc điều tra xét xử tội phạm tham nhũng nghiêm trọng.
Theo Dantri