An Giang mùa thốt nốt và nghề ăn cơm dưới đất làm việc trên trời
Mùa mưa vừa kết thúc, hàng ngàn người dân ở huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên ( tỉnh An Giang) lại tất bật chuẩn bị dụng cụ để đi hái trái thốt nốt, lấy nước nấu đường thốt nốt. Trời chưa hửng sáng đã thấy những bóng người xuất hiện dưới gốc cây thốt nốt, thoăn thoắt trèo lên và mất hút trong tán lá xum xê.
Trèo hái thốt nốt được gọi là nghề mưu sinh giữa lưng trời hoặc “ăn cơm dưới đất làm việc trên trời”.
Vùng Bảy Núi nổi tiếng với những rừng thốt nốt bạt ngàn. Cây thốt nốt là nguồn thu nhập chính của rất nhiều gia đình Khơ-me nơi đây. Ngoài lấy nước nấu đường, người dân còn thu hoạch trái để bán như là một đặc sản.
Ở huyện Tri Tôn, những người mưu sinh bằng nghề trèo thốt nốt sinh sống thành một xóm biệt lập tại ấp An Lợi (xã Châu Lăng). Những bậc cao niên tại đây cho biết, nghề leo thốt nốt có tính “thời vụ”, chỉ làm từ đầu tháng 11 âm lịch cho đến tháng 5 năm sau. Đây là thời điểm nước thốt nốt ngọt, sản lượng đường thu được sau khi nấu cũng nhiều hơn.
Người dân chở thốt nốt giao cho các quán nước ven đường
Mờ sáng đã leo cây
Ông Chau Đốk (50 tuổi) cho biết: “Hầu hết những người leo thốt nốt đều thuê cây của người khác. Mỗi cây thuê với giá từ 100.000-200.000 đồng/năm tùy đực hay cái. Cây cái thường có giá cao hơn, vì ngoài lấy nước còn hái được trái”.
Anh Châu Xem (34 tuổi) hiện đang thuê 40 cây thốt nốt với giá 4.000.000 đồng/năm. Dừng lại trước một cây thốt nốt cao hơn 20m, dọc thân cây được cột sẵn cây tre nhiều mắt, anh Xem cứ bám theo mắt tre mà thoăn thoắt leo lên. Anh Xem dùng chiếc kẹp tre kẹp bông thốt nốt rồi dùng dao cắt gọt bông, dẫn nước từ bông thốt nốt chảy thẳng vào 2 chai nhựa được đặt sẵn. Và cũng nhanh như khi trèo lên, thoắt cái đã thấy anh Xem xuống đất.
Video đang HOT
Anh Châu Xem đang leo cây thốt nốt cao hơn 20m
Ngồi dưới bóng cây thốt nốt hơn 40 năm tuổi, anh Xem kể: “Đây là nghề của người nghèo, những người khá hơn không ai đi leo thốt nốt vì nếu sơ suất là đổi cả tính mạng. Nhưng gia đình 4 miệng ăn nhà tôi nhờ nó mà sống”. Theo anh Xem, vùng này còn nghèo, đất đai không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp nên chỉ có nghề leo thốt nốt là dễ kiếm sống.
Vậy là từ năm 15 tuổi, anh đã bắt đầu đi leo thốt nốt thuê. Sau khi lập gia đình, anh đã thuê vườn thốt nốt rồi tự leo lấy nước nấu thành đường bán. Do ở chung với gia đình vợ, nên đến mùa “trèo thốt nốt”, vợ chồng anh ra vườn cất chòi để tiện cho việc thu hoạch.
Hiện vùng Bảy Núi có đến hàng trăm người leo thốt nốt, trong đó có nhiều người có thâm niên hơn 30 năm. Anh Chau Khum nói: “Chúng tôi ngán nhất là leo xuống vì vừa mệt vừa còn phải mang theo đồ nặng, nếu không cẩn thận rất dễ rơi tự do, nhẹ thì gãy chân còn nặng hơn thì…”.
Khác với leo dừa, những người leo thốt nốt phải chuẩn bị những cây tre có mắt lớn cột chặt vào thân cây thốt nốt làm thang. Thường những người trèo cây thốt nốt không có đồ bảo hộ lao động mà chỉ có con dao, chiếc kẹp tre và những chai nhựa. Anh Châu Lanh (40 tuổi) tâm tình: “Sức mình leo chừng 50 cây thốt nốt trong một ngày là vừa, nếu cứ tiếp tục ráng thêm sẽ rất nguy hiểm, lỡ có sơ suất ai sẽ nuôi vợ, nuôi con”.
Nhà nhà đỏ lửa nấu đường thốt nốt
Những ngày đầu mùa khô này đi khắp vùng Bảy Núi nơi nào cũng thấy các lò nấu đường thốt nốt đỏ lửa. Đi trên các con đường ở các phum, sóc của xã An Lợi, Châu Lăng, Văn Giáo, An Cư… dễ dàng ngửi được hương thơm ngào ngạt của đường thốt nốt. Năm nay, bà con phấn khởi vì giá đường bán tại lò cao hơn so với năm trước, cuộc mưu sinh cũng vì thế thêm phần náo nhiệt.
Người dân Tri Tôn (An Giang) nấu đường thốt nốt
Nhờ nghề nấu đường thốt nốt mà gia đình anh Chau Sóc Dên (xã Châu Lăng) có cuộc sống ổn định. Anh phấn khởi nói: “Từ khi được tham gia lớp tập huấn kỹ thuật khai thác và chế biến, đường do gia đình nấu có giá bán cao hơn. Hiện mỗi ngày gia đình cung cấp từ 25-30kg đường, với giá bán 35.000 đồng/kg. Trước đây có 10 nhà leo thốt nốt nay chỉ còn lại 2 – 3 nhà trong ấp, họ đã bỏ nghề vì ngại nguy hiểm hoặc đã kiếm nghề ổn định hơn”.
Theo thống kê của các ngành chức năng, thốt nốt tập trung ở huyện Tri Tôn và Tịnh Biên với số lượng trên 60.000 cây, mỗi năm thu hoạch khoảng 6.000 tấn đường. Sản lượng đường hàng năm tăng khoảng 10% do tuổi thọ cây càng cao lượng đường nấu được càng nhiều. Đường thốt nốt có 2 loại là đựng trong keo và đường tán tròn, giá bán là 50.000 đồng/kg.
Thời điểm này về vùng Bảy Núi không khó để thấy sản phẩm từ thốt nốt có mặt khắp nơi từ hàng quán, chợ hay chỉ là chòi nhỏ ven đường.
Theo Kim Thoa (giaoducthoidai)
An Giang: Thương mùi cốm dẹp Bảy Núi, bỏ chày, cối đi Bình Dương hết rồi
Là món ăn truyền thống của đồng bào Khmer, cốm dẹp đã trở thành nỗi nhớ của những ai sinh ra và lớn lên ở vùng Bảy Núi. Bởi thế, dù nghề làm cốm dẹp không còn phổ biến nhưng những ai gắn bó cùng nó cứ son sắt một lòng, mặc cho thời gian phủ bụi lên những chiếc chày nơi góc bếp.
Đưa mắt nhìn về bếp lửa đang cháy bập bùng dưới chiếc nồi đất vừa rang nóng, ông Chau Sóc Sane không giấu được sự ưu tư bởi lẽ cái nghề làm cốm dẹp truyền thống ở xã Ô Lâm (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) đã không còn thịnh hành như mấy chục năm về trước. Năm nay, Chau Sóc Sane đã ngoài 60 tuổi nhưng vẫn còn thừa sức cầm chày nện "huỳnh huỵch" xuống chiếc cối giữa sân để giã cốm mỗi khi cả sóc, phum đón mừng Tết Ok-om-bok (Tết cúng trăng)...
Dùng chày giã cốm
Ông Chau Sóc Sane chia sẻ: "Trước kia, cả khu này có tới mấy chục nhà làm cốm dẹp để bán quanh năm, chứ không chỉ dịp Ok-om-bok, bởi không chỉ người Khmer mà người Kinh cũng thích món ăn này. Do nhu cầu xã hội ít đi nên còn 17 hộ theo nghề cách đây 3 năm. Hiện nay, người ta bỏ chày, bỏ cối đi Bình Dương, Đồng Nai hết rồi nên chỉ còn vài ba nhà làm cốm dẹp".
Trong đôi mắt lão nông Khmer này hiện lên ký ức về thời kỳ "hoàng kim" của hạt cốm dẹp, khi mà tiếng chày, tiếng cối cứ vang vọng khắp phum, sóc để đánh thức ông trăng tròn vào đêm rằm tháng 10 (âm lịch).
Hiện nay, Chau Sóc Sane đang cùng cô con gái Neáng Sóc Vy "giữ lửa" cho nghề làm cốm dẹp, trong khi 8 đứa con khác của ông buộc phải đến các tỉnh miền Đông Nam Bộ tìm kế mưu sinh.
Để làm cốm dẹp, người ta chọn những hạt nếp mây mẩy, giống nếp chon-hô trứ danh vùng Bảy Núi hiện chỉ còn trồng rất ít ở xã Núi Tô, Cô Tô (huyện Tri Tôn), để cho ra những mẻ cốm thơm dẻo, thắm đẫm mùi vị quê hương.
Trước tiên, nếp được cho vào nồi đất để rang chín. Khi nếp nổ lách tách trong nồi, người ta đổ vào cối rồi dùng chày giã cho dẹp hẳn. Khi cốm dẹp, các mẹ, các chị lại phải sàng sẩy cho sạch vỏ, sạch bụi. Đó là công đoạn sơ chế. Muốn ăn cốm, các bà nội trợ sẽ phải trộn thêm dừa, đường và một ít nước dừa tươi.
Trong đêm trăng tròn tháng mười, trên bàn thờ tổ tiên của đồng bào dân tộc thiểu số Khmer luôn có dĩa cốm dẹp với chuối tươi ăn kèm để cầu mong mùa màng tươi tốt và tưởng nhớ công ơn người đi trước...
Nếp chon-hô được rang trong nồi đất
Chị Neáng Sa Rết (hộ làm cốm dẹp khác tại xã Ô Lâm) thật tình: "Mỗi năm, tui chỉ làm cốm được 4 tháng, tức là từ tháng 10 đến hết tháng giêng nên nguồn thu không ổn định, buộc mình phải kiếm thêm nghề khác mưu sinh. Vì đây là nghề của cha ông để lại nên tui ráng giữ. Nếu mình siêng năng thì cốm dẹp mang đến nguồn thu cho gia đình...'.
Chị Neáng Sa Rết chia sẻ: "Trước kia có nhiều người ở Nhà Bàng (huyện Tịnh Biên), Châu Đốc vô đặt cốm về bán, bây giờ họ đặt ít quá nên nguồn thu cũng giảm. Nhờ mấy năm gần đây được Hội Nông dân dẫn khách du lịch tới tham quan, mua cốm dẹp nên mình cũng có thêm thu nhập".
Với nhiều người, cốm dẹp đã rất thân quen và gắn chặt vào ký ức thời thơ ấu. Quên sao được hình ảnh những mẹ, những chị kĩu kịt 2 đầu quang gánh với nào là xôi nếp, xôi bắp, cốm dẹp rồi cất tiếng rao "lanh lảnh" trên những nẻo đường ngập nắng.
Ngày còn "ê a" đánh vần, ai chẳng được một lần nếm thử món cốm dẹp dân dã, "đặc sệt" chất quê này. Với đồng bào dân tộc thiểu số Khmer, cốm dẹp vừa gần gũi lại vừa thiêng liêng, bởi nó có thể "để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà" nhưng cũng là món bánh để dâng cúng tổ tiên, trời đất, cầu mong mưa thuận gió hòa.
Theo Thanh Tiến (TTMT)
An Giang: Nước ở lưng chừng trời, ai ngờ lại hút người "sống ảo" Những hồ chứa nước thuỷ lợi trên núi của cư dân vùng Bảy Núi (An Giang) ban đầu làm ra cốt chỉ để lấy nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, hoặc hồ hình thành sau khi khai mỏ đá. Ai ngờ, sau khi hoàn thành đưa vào sử dụng, những cái hồ trên núi vùng Bảy Núi lại thành "Tuyệt tình cốc"...