60 năm Hiệp định Genève (1954 – 2014) – Kỳ 8: Vết cắt sâu đến 60 năm
Vào những năm 1954 – 1955, hàng ngàn người con Nam bộ theo sự điều động của cách mạng đã tập kết ra miền Bắc, với niềm tin và hy vọng chỉ sau hai năm sẽ được trở về quê hương yêu dấu. Ba má tôi cũng nằm trong số đó. Và không ai có thể hình dung được rằng mãi hai mươi năm sau mới lại được đặt chân về đôi bờ Đồng Nai, Vàm Cỏ, Cửu Long…
Gia đình tác giả trong những tháng năm “ngày bắc đêm nam” (Hà Nội, tháng 8.1964) – Ảnh: Tác giả cung cấp
Ba tôi đã viết trong hồi ký như sau: “… Một ngày, cuối năm 1954, giữa một rừng cờ đỏ vàng sao, gia đình và đồng bào tiễn đội ngũ chúng tôi lên đường tập kết… Lần đầu tiên có chuyến đi xa, nhưng không một ai thiết nhìn phong cảnh. Chúng tôi vừa để lại phía sau những gì thân thương nhất, vừa lo âu không hiểu rồi đây tương lai của mảnh đất quê hương yêu mến rồi sẽ ra sao, vừa băn khoăn cố gắng hình dung những nhiệm vụ nặng nề sắp đến, tự hỏi mình có gánh vác nổi hay không?”.
“Tàu Xta-vơ-rô-pôn cập bến Sầm Sơn vào một buổi sáng mùa đông, gió lạnh chạy dài trên bãi biển. Đồng bào đông đảo nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi. Trống ếch rập rùng, nhưng lòng chúng tôi đau quặn vì thấy bà con ăn bữa cháo bữa rau, nhưng vẫn dành cho những đứa con miền Nam cơm đầy thịt đủ”.
“Kế tiếp là những năm dài “ngày bắc đêm nam”, là những chuyến lưu diễn liên miên: Rừng núi Việt Bắc, đồng ruộng Khu Ba, khu mỏ Quảng Ninh, giới tuyến Hiền Lương… Tới đâu chúng tôi cũng ráng đem lời ca tiếng hát góp phần cho than, lúa thêm nhiều, đem chút ít tình cảm ấm áp cho anh em đồng hương, ráng làm hết sức mình vì miền Nam ruột thịt”.
Hai mươi năm, một thế hệ mới đã kịp ra đời và lớn lên ở Hà Nội – miền Bắc, đó là thế hệ chúng tôi, thế hệ “một chốn đôi quê” chỉ được biết quê hương qua những ký ức mà mẹ cha truyền lại. Hai mươi năm sống ở miền Bắc, ba má tôi vẫn giữ được nguyên vẹn giọng nói và tính cách người Nam bộ chân chất thiệt tình. Những tháng năm sống ở Hà Nội, ký ức về quê hương thường được ba má tôi nhắc đến, bất kỳ lúc nào có gì đó gợi nhớ. “Ngày bắc đêm nam” suốt hai mươi năm không làm nguôi nỗi nhớ mà chỉ làm dày thêm ký ức về quê hương. Tuổi thơ của tôi được nuôi dưỡng trong những ký ức của cha mẹ.
Video đang HOT
Quê hương tôi là làng nhỏ Mỹ Hiệp trên Cù Lao Giêng bên bờ sông Tiền, nơi mà sau này nhạc sĩ Hoàng Hiệp – cũng là một người bà con gần với gia đình tôi – đã ghi lại ký ức về nó qua bài hát Trở về dòng sông tuổi thơ. Làng Mỹ Hiệp hiền lành với vườn trái cây, những nếp nhà sàn khuất sau hàng dừa, cánh đồng lúa chín trong mênh mông mùa nước nổi… Vào đầu năm 1945, một cô gái bên kia sông Tiền đã theo ba tôi về làm dâu và dù chỉ ở đó vài năm thôi nhưng trong tâm thức của má tôi, quê chồng cũng là quê mình. Và cũng như vậy, quê ngoại của tôi, làng Hòa An kế bên thị tứ Cao Lãnh cũng trở nên gần gũi hơn với hình ảnh cây mận xanh bên chái bếp, loại mận xanh Hòa An nổi tiếng thường được hấp với cá lóc, vị chua ngọt thanh thanh thấm vào miếng cá, nhậu quên say… Vườn thuốc lá Cao Lãnh thơm đậm đà nhờ được bón bằng phân cá, làn khói thơm mùi lúa mới từ nhà máy xay của ông ngoại lan trên sông…
Tôi biết về quê hương Cù Lao Giêng và Cao Lãnh từ ấy, biết yêu sông Tiền, yêu mùa nước nổi từ ấy, biết thèm ăn mắm lóc, thèm cá rô kho tộ, thèm canh chua cá linh bông điên điển… Lớn hơn một chút, từ những cuốn sách, qua những câu chuyện, hiểu biết của tôi về quê hương cụ thể hơn, nhiều hơn nhưng không thể thay thế sự lung linh run rẩy mà ký ức cha mẹ truyền cho.
Nhưng quê hương không chỉ là những ký ức run rẩy đẹp. Hai mươi năm bặt tin, một ngày đầu tháng 5.1975, một bà mẹ được ôm người con gái trong vòng tay. Đứa con gái mà bà đã phải lập bàn thờ từ khi nó đi tập kết với lời hứa: con đi 2 năm sẽ về với má. Bàn thờ đứa con còn sống ở “phía bên kia” là để cho những đứa con khác yên ổn học hành, đi làm, đi lính… Nhưng chưa kịp mừng vì con gái trở về, bà đã phải đưa 2 người con trai đi học tập cải tạo. Gia đình lại chia ly. Người chị tìm cách bảo lãnh cho hai em ra khỏi trại cải tạo sớm hơn hạn định, gia đình gom góp tiền bạc cho họ vượt biên. Cũng may, người trong nhà thuộc bên này hay bên kia, cũng có lúc hờn giận nhau nhưng không nuôi oán trách thù hận. Họ thương yêu nhau hơn vì không muốn làm người mẹ đau lòng, vì họ hiểu không ai trong gia đình muốn những việc như thế xảy ra. Đấy là chuyện của gia đình bạn tôi sau năm 1975.
Nhưng dù như vậy, gia đình bạn còn may mắn hơn rất nhiều gia đình khác. Từ vết cắt 1954, biết bao gia đình có người thân phải đứng về hai chiến tuyến, biết bao gia đình không thể sum họp vì vợ, chồng đã có gia đình mới trong những năm dài chia cắt, biết bao nhiêu gia đình tiếp tục tan vỡ vào những ngày ngỡ đã bình yên… Vết cắt 1954 không chỉ dài đến 20 năm mà hình như, 60 năm rồi vẫn chưa lành.
Tôi vẫn luôn tự hỏi, nếu ngày ấy bản đồ VN không bị một vạch đỏ cắt ngang sông Bến Hải thì bây giờ đất nước sẽ thế nào?
Lịch sử thì không có chữ “nếu”. Chính vì vậy cần minh bạch tất cả những gì đã làm thay đổi số phận đất nước và số phận của từng gia đình, để thế hệ sau không phải đặt ra một chữ “nếu” đau xót như thế hệ hôm nay!
Theo TNO
60 năm Hiệp định Genève (1954 - 2014) - Kỳ 5: Cuộc chia ly trong những cuộc chia ly
Là một người lãnh đạo cấp cao của Đảng, gia đình Tổng bí thư Lê Duẩn cũng chịu cảnh chia ly sau khi hiệp định Genève được ký kết.
Tổng bí thư Lê Duẩn và một số người con, cháu vào năm 1982 - Ảnh: Gia đình cung cấp
Trở lại miền Nam
Thời điểm hiệp định ký kết, Tổng bí thư Lê Duẩn, được nhiều vị lãnh đạo thân mật gọi là anh Ba, là Ủy viên Bộ Chính trị, giữ cương vị Bí thư Xứ ủy Nam bộ (sau đổi thành Trung ương Cục miền Nam).
Chúng tôi đã trực tiếp trò chuyện với ông Lê Kiên Thành (một trong những người con của ông Lê Duẩn). Ông Thành sinh năm 1955, con của bà Nguyễn Thụy Nga - người vợ miền Nam của Tổng bí thư LêDuẩn. Từ những chia sẻ của cha mẹ và gia đình trong những năm tháng lớn lên và trưởng thành, cho đến giờ ông Thành vẫn còn nhớ nhiều chuyện về những tháng ngày đặc biệt của lịch sử dân tộc.
Lần đầu tiên ông Thành công bố lá thư tay của Tổng bí thư Trường Chinh viết ngày 22.7.1954 gửi cho cha ông (sau khi hiệp định ký kết 1 ngày). Lá thư có đoạn: "Anh Ba! Tin thắng lợi ngoại giao anh đã rõ. Nhưng đây mới là thắng lợi bước đầu, còn phải đấu tranh gay go, phức tạp nhiều nữa mới đạt được mục tiêu của chúng ta. Vấn đề trước mắt bây giờ là tuyên truyền, giải thích cho cán bộ, bộ đội và đồng bào để đánh thông tư tưởng, đạt tới sự nhất trí, trên dưới một lòng chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị của Bác, của Trung ương và Chính phủ (...) Thì giờ gấp quá không viết được nhiều. Mong anh vào Nam bộ thuyết phục cho anh chị em và bà con trong đó nhận rõ vấn đề đình chiến và điều chỉnh khu vực đóng quân, có kết quả tốt". Lá thư cũng đề cập việc ông Lê Duẩn vào nam là do chỉ thị của Bác Hồ và Bộ Chính trị. Lý do là "vì chúng tôi biết rằng cán bộ, đồng bào trong nam rất tin tưởng ở anh; việc giải thích trong đó rất là khó, cần phải người có uy tín" (trích thư).
Ông Thành nói: "Mẹ tôi có kể lại, khi về miền Nam, qua những lần tiếp xúc với cán bộ, gặp gỡ đồng bào, thấy trong lớp người ở lại có người lo âu, cha tôi càng băn khoăn ray rứt. Một luồng ý kiến rộ lên lúc đó là ta ráng thêm chút nữa là thống nhất luôn miền Nam, vì ngoài bắc chúng ta thắng lớn trận Điện Biên Phủ, còn trong nam thì đã kiểm soát được phần lớn địa bàn. Một điều đáng tiếc là lúc đó có sự can thiệp của nước lớn. Gần đến thời điểm ký kết hiệp định, phía ta mới được mời vào bàn đàm phán. Điều này hoàn toàn khác xa so với việc ký hiệp định Paris sau này là chúng ta hoàn toàn trên thế thắng". "Bài học lớn nhất mà cha tôi cảm nhận được từ hiệp định Genève là không bao giờ để vận mệnh đất nước, dân tộc nằm trong tay người khác, để người khác quyết định", ông Thành nói thêm.
Ngày ngày xuôi ngược các dòng kênh
Theo lời kể của ông Thành, trước ngày 21.7.1954, ông Lê Duẩn lên đường ra bắc báo cáo với Bác Hồ và Trung ương tình hình toàn miền Nam để cùng thống nhất lại những điều khoản quan trọng làm tinh thần cốt lõi phục vụ cho cuộc đàm phán. Ra đến miền Trung (thuộc địa bàn Khu 5) thì bất ngờ hay tin hiệp định đã ký kết. Trên đường quay trở lại miền Nam, nhìn hai bên đường có nhiều người đưa hai ngón tay lên vui vẻ chào nhau (như một lời hẹn hai năm sau sẽ đoàn tụ trong ngày đất nước thống nhất), ông đã bật khóc. Bởi là người trong cuộc, ông dự liệu ngày đó sẽ không dễ dàng đến được, và rồi đây sẽ phải đối mặt, ứng phó với một chặng đường dài đầy cam go phía trước.
Đúng như dự liệu, ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào năm 1956 đã không đến theo lộ trình cam kết trước đó của hiệp định Genève. Những tháng ngày ở lại miền Nam của Bí thư Xứ ủy Nam bộ gian nan và nguy hiểm đến tột cùng. Là một người lãnh đạo cấp cao của Đảng, gia đình "anh Ba" cũng chịu cảnh chia ly sau khi hiệp định Genève được ký kết.
Ông Thành bồi hồi nhớ lại: "Chuyến tàu Kéreinsky của Ba Lan là chuyến áp chót, chở khoảng 2.000 người, trong đó có gia đình tôi và bác Sáu Thọ (ông Lê Đức Thọ khi đó là Phó bí thư Xứ ủy Nam bộ) đi tập kết. Suốt quãng đường đi lên tàu, cha tôi không hề nói gì về việc ông sẽ ở lại, có lẽ vì sợ mẹ và chị tôi (bà Lê Vũ Anh) lo lắng quá mức, đi không đành. Khoảng 12 giờ đêm tàu nhổ nheo, cha tôi mới ôm hôn, nước mắt in dấu mặt mẹ tôi, nói: "Anh thương vợ con anh như thế nào thì anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế đó, cho nên anh phải ở lại. Em ra miền Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người". "Sau này, khi gặp lại vợ con, những lúc tâm tình trong gia đình, cha tôi trước sau luôn căn dặn một điều là để có cuộc sống đúng nghĩa phải sống với nguyên tắc tình thương, lao động và lẽ phải", ông Thành nói thêm về một kỷ niệm với người cha.
Dù Bí thư Xứ ủy Nam bộ bí mật ở lại miền Nam nhưng sau đó phía địch vẫn phát hiện, vì như lời kể của ông Thành, "qua theo dõi họ không thấy Bí thư Xứ ủy Nam bộ xuất hiện ở miền Bắc hay ở đâu cả". Những cuộc "khủng bố trắng" từ đó bắt đầu. "Thoát được những cuộc "khủng bố trắng", bố tôi kể là nhờ may mắn, sự cảnh giác của bản thân, nhưng đặc biệt là nhờ sự kiên trung của những cán bộ, chiến sĩ thân cận. Có những năm tháng cha tôi để râu dài để ngụy trang. Ngày ngày cứ ở trên xuồng xuôi ngược các dòng kênh nhằm tránh sự truy lùng, bắt bớ".
Dự liệu sẽ ở lại miền Nam 20 năm để đấu tranh vì khát vọng hòa bình, thống nhất nhưng 4 năm sau ngày hiệp định Genève ký kết, ông Lê Duẩn ra bắc theo sự điều động của Trung ương. Trở lại miền Nam vào trưa 8.5.1975 cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, theo hồi ức của ông Sáu Dân (Thủ tướng Võ Văn Kiệt), trước nhiều vị lãnh đạo hai miền, ông đã thẳng thắn bộc bạch ngay khi vừa xuống sân bay Tân Sơn Nhất: "Không một người nào được nói chiến công này là của mình. Để giải phóng được riêng Sài Gòn này đã có mấy ngàn bà mẹ mất con rồi...".
Theo TNO
"Trung Quốc sử dụng vấn đề Việt Nam để giải quyết chuyện trong nước" Vấn đề Việt Nam trở thành công công cụ được các nhà báo chính trị Trung Quốc sử dụng để kích thích chủ nghĩa dân tộc (cực đoan). Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Ảnh: Talk Vietnam. Đài VOA ngày 19/7 đưa tin, hàng trăm người đứng trang trọng hát quốc ca Việt Nam trong một buổi lễ sáng Thứ Sáu tại Hà...