5 máy bay ném bom đáng sợ nhất mọi thời đại
Trong quá khứ, lực lượng không quân của Mỹ, Vương quốc Anh, Liên Xô và Italy đã thiết kế và chế tạo máy bay ném bom là nỗi ám ảnh của hầu hết các nước trên thế giới.
Để đánh giá những chiếc máy bay ném bom nào được xếp vào danh sách những “thần sấm” oanh tạc tốt nhất mọi thời đại, giới chuyên gia căn cứ vào các tiêu chí như: Có giải quyết được các mục tiêu chiến lược của các nhà chế tạo hay không? Có đủ linh hoạt để thực hiện các nhiệm vụ khác và so với các máy bay ném bom cùng thời, nó có cạnh tranh được cả về mặt giá cả, khả năng cũng như tính hiệu quả hay không? Căn cứ vào những tiêu chuẩn này, National Interest xếp loại 5 máy bay ném bom dưới đây vào hàng ngũ những oanh tạc cơ tốt nhất mọi thời đại.
Handley Page Type O 400
Handley Page Type O 400. Ảnh: Wikipedia.
Các cuộc tấn công ném bom chiến lược đầu tiên trong Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất được thực hiện bởi các khinh khí cầu của Đức. Do trọng lượng khá nhẹ nên nó có khả năng bay cao hơn so với các máy bay đánh chặn khi đó và đã giúp Đức tấn công có hiệu quả một số mục tiêu của Anh và vài quốc gia khác.
Cùng với sự phát triển về khả năng đánh chặn và hệ thống phòng không theo thời gian, Đức, Italy và Anh bắt đầu nghiên cứu những loại máy bay ném bom có khả năng mang tải trọng nhiều hơn và bay xa hơn để đối chọi với quân Đức. Theo đó, công ty hàng không Handley Page của Anh đã nghiên cứu và chế tạo ra loại máy bay ném bom hai tầng cánh Type O 400.
Máy bay ném bom hai tầng cánh Type O 400 có tốc độ nhanh hơn và có khả năng mang tải trọng nhiều hơn so với máy bay ném bom cùng thời bấy giờ là Gotha IV và Caproni Ca.3.
Type O 400 có sải cánh gần bằng Avro Lancaster. Với tốc độ cực đại đạt 97 dặm/giờ và tải trọng cất cánh tối đa lên đến 6 tấn, O 400 là một trong những trụ cột của không quân độc lập Hugh Trenchard trong giai đoạn gần cuối cuộc chiến. Một đơn vị O 400 đã phá hủy có hiệu quả những căn cứ không quân cũng như các cơ sở hậu cần của quân Đức. Các cuộc oanh tạc này cũng đặt nền tảng lý thuyết tác chiến không quân sau đó, trong đó (ít nhất là Mỹ và Anh) đã định hình ra cách thức phá hủy các mục tiêu của đối phương quy mô lớn.
Khoảng 600 chiếc O 400 đã được sản xuất trong Thế chiến thứ I và chiếc cuối cùng được cho “nghỉ hưu” vào năm 1922. Trong thời gian này, các nước như Mỹ, Trung Quốc và Australia cũng trang bị O 400 cho lực lượng không quân của mình với số lượng nhỏ.
Junkers Ju 88
Junkers Ju 88. Ảnh: Stelzriede.
Junkers Ju 88 được cho là một trong những máy bay linh hoạt nhất trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Junkers Ju 88 được trang bị động cơ đôi – bổ nhào và với hỏa lực mạnh để thực hiện nhiệm vụ máy bay ném bom cỡ trung bình. Máy bay này thể hiện rất tốt vai trò của mình trên chiến trường như đánh đêm, đánh bổ nhào, oanh tạc – phóng ngư lôi, do thám và đánh bom hạng nặng.Với chi phí tương đối rẻ nhưng hiệu quả cao, không quân Đức đã tận dụng tối đa ưu thế của Ju 88 trên hầu hết các chiến trường, đặc biệt là trên mặt trận phía đông và Địa Trung Hải.
Đức đã sử dụng Junkers Ju 88 tham gia tác chiến lần đầu tiên trong chiến dịch xâm lược Ba Lan, Na Uy và trận chiến với Pháp. Trong trận chiến với Anh, Ju 88 đã gây thiệt hại nặng nề cho ngành công nghiệp và cơ sở hạ tầng của Anh. Trong chiến dịch Barbarossa bị không kích nặng nề sau khi xé nát đội hình xe tăng và phá hủy nhiều trận địa phòng thủ của Liên Xô trên mặt đất.
Với chi phí tương đối rẻ nhưng hiệu quả cao, giữa năm 1939 và 1945 không quân Đức đã sản xuất khoảng 15.000 chiếc Ju 88 S và phục vụ cho lực lượng không quân Axis.
De Havilland Mosquito
Video đang HOT
De Havilland Mosquito.
De Havilland Mosquito là máy bay chiến đấu đa năng xuất hiện trong Chiến tranh Thế giới thứ hai với hàng loạt nhiệm vụ quan trọng. Nó được chế tạo gần như hoàn toàn bằng gỗ, nên có biệt danh là “The Wooden Wonder” hay các phi công gọi một cách trìu mến là “Mossie”.
Mossie có thể bay dễ dàng với buồng lái điều áp với trần bay cao. Với trọng lượng tương đối nhẹ do cấu tạo hoàn toàn bằng gỗ và trang bị động cơ Merlin tiên tiến, nó dễ dàng vượt qua các máy bay ném bom khác như Bf109 của Đức và hầu hết các máy bay chiến đấu khác của quân đồng minh lúc đó về tốc độ cũng như trần cao.
Mặc dù tải trọng bom của De Havilland Mosquito bị hạn chế, tốc độ tuyệt vời của nó kết hợp với các trang bị hiện đại cho phép nó có khả năng oanh tạc chính xác các mục tiêu của đối phương hơn các máy bay ném bom khác. Trong chiến tranh, không quân Hoàng gia Anh sử dụng De Havilland Mosquito cho các cuộc tấn công chính xác các mục tiêu có giá trị cao, trong đó có trụ sở của chính phủ, và các cơ sở phóng tên lửa V của Đức. Ngoài ra, máy bay này cũng thực hiện nhiệm vụ nghi binh đánh lạc hướng máy bay chiến đấu Halifaxes và Lancasters của quân Đức.
De Havilland được sản xuất hơn 7.000 chiếc trang bị cho không quân Anh và một số nước đồng minh khác.
Avro Lancaster
Avro Lancaster
Avro Lancaster là loại máy bay ném bom chiến lược rất được tin cậy của lực lượng không quân Anh. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, Lancaster thực hiện phần lớn các nhiệm vụ ném bom tấn công kết hợp (CBO). Nó thực hiện các cuộc ném bom tấn công chiếc lược vào ban đêm đối với Đức, phá hủy tinh thần chiến đấu và kinh tế của Đức và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Năm 1942, chiếc Lancasters đầu tiên bắt đầu hoạt động. Với tải trọng bom lớn hơn nhiều trong khi bay với tốc độ tương tự và một phạm vi dài hơn một chút so với B-17 hoặc B-24, nó đã làm lu mờ vai trò của các loại máy bay ném bom cùng thời như Handley Page Halifax. Từ năm 1942 đến năm 1945, Lancaster của không quân Anh tiêu diệt hầu hết các đô thị của Đức và dẫn đến cái chết của hàng trăm nghìn người dân Đức.
Hơn 7.000 chiếc Lancasters đã được chế tạo và chiếc cuối cùng bị thải loại vào năm 1960 sau khi Canada sử dụng chúng thực hiện nhiệm vụ trinh sát và tuần tra biển lần cuối.
Boeing B-52 Stratofortress
Boeing B-52 Stratofortress.
Qua bài học từ chiếc B29 Superfortress ở Triều Tiên vào những năm 1950, Mỹ cần nhanh chóng có một chiếc máy bay ném bom chiếc lược mới. Hai thế hệ máy bay ném bom đầu tiên của không quân Mỹ đều đã thất bại là Convair B-36 và Boeing B-47. Các máy bay ném bom này nhanh chóng được đưa vào bãi chứa Boneyard. Hơn 2.500 chiếc máy bay ném bom được đưa vào sử dụng trong Chiến tranh Lạnh nhưng đều đem lại sự thất vọng.
B-52 được thay thế cho B-36 và B-47. Với những tính năng vượt trội của B-52, BUF lần đầu tiên đưa B-52 vào cuộc chiến tại chiến trường ở Việt Nam. Tuy nhiên, B-52 đã chịu thất bại nặng nề và duy nhất trên chiến trường ở Việt Nam trong chiến dịch Linebacker II. Trong chiến tranh vùng Vịnh, B-52 đã thực hiện chiến dịch ném bom các vị trí chiến lược của quân đội Iraq làm mất ý trí của quân đội Iraq. Trong cuộc chiến chống khủng bố, B-52 đã tham gia đóng vai trò quan trọng yểm trợ, cung cấp vũ khí, xác định chính xác vị trí của quân nổi dậy Iraq và Taliban.
Và gần đây nhất, hai chiếc B-52 của Mỹ đã cố tình đi vào Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) mà Trung Quốc vừa thiết lập trên biển Hoa Đông trong một động thái ngoại giao ám chỉ sự phản đối với tuyên bố này của Bắc Kinh.
Từ giữa năm 1954 đến 1963, 74 chiếc B-52 đã được chuyển giao, 78 chiếc tiếp tục phục vụ trong không quân Mỹ. Trải qua thời gian, chiếc B-52 sẽ tiếp tục được phát triển và hứa hẹn sẽ kéo dài đến năm 2030, hoặc có thể xa hơn. Trong đại gia đình “thần sấm”, chiếc B-52 đã chứng tỏ được độ bền và tuổi thọ đáng nể.
Theo Tri Thức
Hạm đội tàu ma trôi nổi tại Mỹ
Hàng trăm tàu chiến cùng tàu buôn cũ tập kết trên vùng vịnh tại San Francisco chờ ngày người ta định đoạt số phận cho chúng.
Hiện tại, hạm đội Mothball gồm 340 tàu chiến và tàu buôn đậu ngoài khơi vịnh Suisun, phía tây bắc thành phố San Francisco. Chúng là những tàu từng phục vụ trong các cuộc chiến như Thế chiến II, chiến tranh Triều Tiên, cuộc chiến ở Việt Nam và chiến tranh vùng Vịnh hay những tàu buôn dân sự từ nhiều thập niên trước.
Tàu hỗ trợ tàu ngầm USS Nereus gia nhập hạm đội Mothball vào năm 1971 và nằm tại đây cho tới khi người ta đem nó tới Texas để tháo dỡ vào năm 2012. Chính phủ Mỹ đã lập hạm đội Mothball vào năm 1946 và biến nơi đây thành điểm tập kết của các tàu cũ.
Khoảng 20 tấn Bari, đồng, chì và kẽm từ các tàu thải xuống vịnh Suisan đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường xung quanh. Nhiếp ảnh gia Amy Heiden may mắn tiếp cận những con tàu mục nát trước khi người ta tháo dỡ chúng.
Hải quân Mỹ có thể sử dụng những tàu bị vứt xó trong trường hợp khủng hoảng quân sự nổ ra.
Tàu chở hàng USS Tulare được chuyển vào bên trong ngôi nhà nổi đồ sộ trước khi người ta tháo dỡ nó vào năm 2012.
Nội thất của USS Tulare. Tàu gia nhập hạm đội vào năm 1956.
Sea Shadow, tàu biển tàng hình nổi tiếng do công ty Lockheed Martin đóng vào năm 1984 cho Hải quân Mỹ, giờ cũng bị bỏ xó bên trong ngôi nhà nổi.
Thời gian như ngừng lại bên trong tàu chở hàng USS Northern Light.
Một phòng họp trên USS Northern Light. Tàu gia nhập hạm đội Mothball vào năm 1991.
Văn phòng của thuyền trưởng tàu USS Northern Light.
Tàu chở dầu USS Hassayampa ngừng hoạt động vào năm 1978 và đang trôi nổi trên vịnh Suisun.
Một góc USNS General Edwin D.Patrick. Tàu từng tham gia chiến đấu trong Thế chiến II.
Lớp rỉ sét dưới boong tàu.
Không phải tất cả các tàu trong hạm đội Mothball đều trở thành phế liệu. Chiến hạm USS Iowa đã được chuyển tới một bảo tàng lịch sử hải quân tại thành phố Los Angeles cách đây vài năm.
Hạm đội Mothball vẫn là một địa điểm bí ẩn với công chúng. Năm 2017, người ta sẽ chuyển tất cả số tàu còn lại tới nơi tháo dỡ. Khi ấy, Mothball sẽ chìm vào quên lãng.
Theo Tri Thức
Sự khác biệt giữa Không quân Triều Tiên và Hàn Quốc Không quân Triều Tiên có rất nhiều máy bay nhưng phần lớn thuộc thế hệ cũ còn Hàn Quốc sở hữu những chiến đấu cơ rất tinh vi. MiG-21 là xương sống của Không quân Triều Tiên với 150 chiếc trong khi đó 170 chiếc F-5 của Hàn Quốc chủ yếu dùng cho huấn luyện. Những chiếc F-5 cũ kỹ khó lòng so...