5 loại vũ khí giế.t hàng triệu người trong Thế chiến I
Trong Thế chiến I, nhiều loại vũ khí hiện đại, có tính sát thương cao đã được sáng chế nhằm mục đích cuối cùng: khuất phục đối thủ. Sau đây là 5 thứ vũ khí “thần chế.t” đã cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trong cuộc chiến.
Sún.g máy Maxim MG 08
Trong Thế chiến I, lính Đức với sún.g máy Maxin MG 08 là nỗi ám ảnh với binh lính phe Hiệp Ước. Đây là mẫu sún.g máy tiêu chuẩn của quân đội Đức, được thiết kế dựa trên 1 nguyên mẫu năm 1894 của Hiram Maxim. Phiên bản thời kỳ đầu Thế chiến 1 của MG 08 nặng tới 45 kg (gồm sún.g, hộp đạn và các phụ kiện khác). Tuy không thể di chuyển cơ động, sún.g có khả năng bắ.n 500 viên/phút – đủ khả năng tiê.u diệ.t bất cứ toán bộ binh nào.
Xe tăng Mark V có trọng lượng 29 tấn, là loại xe tăng nặng nhất mà Anh sử dụng trong Thế chiến I. Xe có lớp giáp dày gần 1,3 cm – đủ để chống đạn – và 1 khẩu pháo 57 mm (hoặc 1 sún.g máy Vickers). Với thiết kế thân đặc biệt và hỏa lực mạnh, Mark V dễ dàng xuyên thủng các lớp rào kẽm gai và phá hủy các ổ sún.g máy, lô cốt. Dù khá mạnh mẽ, những chiếc Mark V đời đầu rất nóng, ầm ĩ và thường xuyên gặp sự cố – 1 nhược điểm chí mạng khiến xe tăng dễ bị pháo binh Đức “làm thịt” trên các địa hình trống trải.
Tuy nhiên, Mark V cũng đã khắc chế được sún.g máy vốn là bá chủ chiến trường trước khi các phương tiện bọc giáp xuất hiện, góp phần giảm thiểu thương vong cho các binh sĩ trên chiến trường.
Máy tiêm kích 3 tầng cánh Fokker
Vào giai đoạn đầu của cuộc chiến, khi mà các máy bay chiến đấu vẫn còn dùng động cơ cánh quạt thô sơ với vũ khí chính là sún.g máy, Fokker của Đức đã chứng tỏ mình là “ông vua bầu trời” nếu được sử dụng đúng cách. Dù có tốc độ chậm hơn các máy bay của phe Hiệp ước như Máy bay 3 tầng cánh Sopwith hay Spad VIII, Fokker vẫn có thể thỏa sức tung hoành nhờ sự cơ động linh hoạt và khả năng tăng độ cao nhanh. Nhiều phi công Fokker đã đạt danh hiệu ACE (bắ.n hạ trên 5 máy bay trở lên), trong đó xuất sắc nhất là “Nam tước Đỏ” Manfred von Richthofen với thành tích 80 máy bay.
Tàu ngầm Type 93 U-boat
Video đang HOT
Dù thua cuộc, thế nhưng Đức vẫn có thể tự hào về tàu ngầm U-boat – 1 biểu tượng quân sự, đán.h dấu sự thay đổi trong chiến tranh hàng hải hiện đại. Trong đó, phiên bản nguy hiểm nhất là Type 93 với thành tích đán.h chìm 411,000 tấn hàng của phe Hiệp Ước. Mặc dù có tốc độ không hề nhanh (16,6 km/h khi lặn và 31,5 km/h khi nổi) và thời gian hoạt động ngắn (những phiên bản đời đầu chỉ có thể lặn 1 giờ trước khi hết pin), Type 93, vốn được trang bị 1 sún.g máy 88 mm hoặc 105 mm trên boong tàu và 6 ống phóng ngư lôi, vẫn là 1 nỗi kinh hoàng cho các tàu vận tải.
Đại bác Big Bertha và Paris Gun
Đại bác Big Bertha
Big Bertha là một khẩu đại bác khổng lồ của Đức với cỡ nòng khoảng 40cm, lớn hơn so với hầu hết các khẩu pháo trên các chiến hạm vào thời điểm đó. Với khả năng bắ.n một quả đạn pháo gần 1 tấn ở cự ly khoảng 12km, Big Bertha đã phá hủy các công sự của Bỉ vào năm 1914, cho phép quân đội Đức tiến quân qua Bỉ và gần như chiếm được Paris của Pháp.
Ngược lại, đại bác Paris Gun lại dài và hẹp, bắ.n đạn nặng khoảng 90kg với tầm bắ.n khoảng 130km. Điều này cho phép quân Đức tiến hành oanh tạc tầm xa nhằm vào Paris của Pháp.
Đại bác Paris Gun
Giống như nhiều loại vũ khí khác, những khẩu pháo này rất đắt đỏ và dễ hỏng (Paris Gun chỉ có thể bắ.n được 20 viên đạn thì nòng đã bị mòn). Nhưng khả năng phá hủy công sự, hầm hào hoặc oanh tạc một thành phố từ một khoảng cách xa hơn 100km đã làm nên tiếng tăm của những loại vũ khí trên.
Theo Danviet
Trận thảm bại ít người biết của quân Mỹ trên đất Nga
Quân đội Mỹ cùng đồng minh từng điều lực lượng đến Nga nhằm hỗ trợ phong trào nổi dậy chống lại chính quyền Bolshevik.
Quân đồng minh can thiệp vào cuộc nội chiến ở Nga năm 1918.
Ngày nay, có lẽ không còn nhiều người Nga biết đến lần duy nhất Mỹ đưa hàng ngàn binh sĩ đến tham chiến trên đất Nga.
Trả lời phỏng vấn trên tờ La Times những năm 1980, người đàn ông tên Fyodor Kobuishev nhớ về những ngày tháng ban đầu Mỹ muốn can thiệp vào tình hình nội bộ ở Nga.
"Lính Mỹ rất thích Vodka", ông Kobuishev nói. "Họ thường uống cho đến khi say mèm".
Một người khác tên V. T. Pachetsky nhớ về thời điểm "cả trung đội Mỹ nhảy dù từ máy bay và đi bộ trên các con phố ở Vladivostok.
Đó là vào mùa hè năm 1918. Một năm sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, chính quyền Bolshevik mới được thành lập. Hồng quân Liên Xô thuở ban đầu vấp phải sự kháng cự mạnh mẽ của phong trào Bạch Vệ.
Phong trào này bao gồm những người theo trường phái bảo thủ, muốn khôi phục Sa Hoàng và Đế quốc Nga. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm kéo theo cuộc nội chiến bùng nổ không lâu sau đó.
Theo War History Online, lo sợ ảnh hưởng của Nga lan rộng khắp châu Âu, phe Hiệp ước với 4 nước chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp, Nhật quyết định hỗ trợ phong trào Bạch Vệ.
Thế chiến 1 khi đó đang dần đi đến hồi kết nên các nước đồng minh có thêm nguồn lực để tập trung giải quyết mâu thuẫn với Nga.
Lính Mỹ hành quân ở Vladivostok, Nga.
Tháng 8.1918, một trung đoàn bộ binh Anh đổ bộ lên Arkhangelsk ở phía bắc nước Nga, chiếm thành phố này, làm bàn đạp để mở rộng các chiến dịch quân sự.
Mỹ cũng đưa khoảng 10.000 lính thuộc "Đội viễn chinh Gấu Bắc Cực" đến đóng quân tại Murmansk, Arkhangelsk và Vladivostok.
Mục tiêu của "Đội viễn chinh Gấu Bắc Cực" Mỹ là hội quân với quân đoàn Tiệp Khắc 40.000 người đang kiểm soát tuyến đường sắt xuyên Siberia. Trong khi đó, hai trung đoàn Mỹ đóng quân thường trực ở Vladivostok.
Andrei I. Krushanov, một học giả người Nga nói Mỹ đã đem đến đây 800.000 khẩu sún.g và các vũ khí khác, cùng hàng triệu quân trang cho lực lượng phiến quân chống chính quyền Bolshevik.
Nhắc đến nhiệm vụ tham chiến ở Nga, Thiếu tướng William S. Graves, chỉ huy lực lượng viễn chinh Mỹ từng nói: "Tôi phải thừa nhận là mình không hiểu giới lãnh đạo Mỹ mong muốn điều gì khi can thiệp quân sự vào Nga".
Tướng Graves ám chỉ chiến dịch quân sự ở Nga do Tổng thống Mỹ khi đó là Woodrow Wilson phát động.
Tại mặt trận phía bắc, đợt tiến công vào mùa thu của liên quân Anh-Mỹ trước Hồng quân ở Siberia khởi đầu với những chiến thắng vang đội. Cuộc chiến diễn ra trên hai mặt trận dọc sông Dvina và đường sắt Vologda khiến Hồng quân bị đẩy lùi.
Nhưng đội quân của chính quyền Bolshevik nhanh chóng củng cố lực lượng, chuyển sang chiến thuật đán.h du kích, khiến quân Mỹ khó giữ vững được chiến tuyến.
Không chịu nổi giá lạnh, Mỹ đã rút quân khỏi Nga vào năm 1920.
Địa hình đồng bằng rộng lớn của Nga khác xa với chiến tranh chiến hào mà quân đồng minh vốn quen thuộc ở châu Âu.
Mùa đông khắc nghiệt đến cũng là lúc mà liên quân Mỹ-Anh bị đẩy vào thế phòng thủ, trong khi gần như không thể kết nối được với quân đoàn Tiệp Khắc.
Trong khi đó, Hồng quân tiếp tục phát động tiến công trong những tháng đầu mùa đông ở mặt trận sông Dvina, buộc liên quân Mỹ-Anh phải rút lui, củng cố lại lực lượng.
Vào thời điểm đó, tin tức về Thế chiến 1 kết thúc, Đức đầu hàng đồng minh lan rộng khiến các binh sĩ thuộc "Đội viễn chinh Gấu Bắc Cực" Mỹ cảm thấy nhớ nhà.
Trước tình trạng thương vong ngày càng lớn, tâm lý nổi loạn trong lực lượng viễn chinh bắt đầu diễn ra khi binh sĩ yêu cầu được trở về Mỹ. Cảng Arkhangelsk bị đóng băng trong những tháng mùa đông đầu năm 1919, khiến hầu hết lính Mỹ thuộc rơi vào cảnh tuyệ.t vọn.g.
Tháng 5.1919, Anh triển khai 4.000 quân tình nguyện giải nguy cho quân Mỹ ở Arkhangelsk. Lực lượng Mỹ được sơ tán cùng hầu hết quân đồng minh đồn trú ở miền bắc nước Nga. Binh sĩ Mỹ đóng quân tại Vladivostok và Murmansk cũng rời đi sau đó một năm.
Bản báo cáo tháng 10.1919 ghi nhận 210 lính Mỹ thương vong, bao gồm 110 người chế.t, 30 người mất tích và những người khác chế.t vì bệnh tật trong cuộc đối đầu duy nhất với Hồng quân Liên Xô ở vùng Sibera lạnh giá.
Theo Danviet
IS dùng vũ khí hoá học huỷ diệt của thế chiến 1 tấ.n côn.g Mosul Ngày 18.10, giới chức Mỹ cho rằng tổ chức Nhà nước Hồi giáo (IS) sẽ sử dụng vũ khí hóa học thô sơ để chống lại cuộc tấ.n côn.g do Iraq dẫn đầu nhằm vào thành phố Mosul. Một quan chức Mỹ cho biết các lực lượng Mỹ đã bắt đầu thu thập thường xuyên các vỏ đạn để kiểm định về khả...