4 chiến thắng bước ngoặt của quân đội Việt Nam
Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam ghi nhận những trận đánh kéo dài vài ngày thậm chí chỉ… 10 phút nhưng ý nghĩa vô cùng lớn
Chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần – Trận đầu đánh thắng
Trận Phai Khắt và Nà Ngần (diễn ra trong hai ngày 25 và 26/12/1944) là hai trận đánh đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ) – tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Với hai chiến thắng ấy, Đội VNTTGPQ đã thực hiện xuất sắc chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng “phải đánh thắng trận đầu”.
Ngay sau khi được thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã có chiến thắng vang dội
mở đầu cho truyền thống Quyết chiến Quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam
Đồn Phai Khắt là một đồn nhỏ nằm tại bản Phai Khắt thuộc xã Tam Lộng (nay là Tam Kim), thuộc châu Nguyên Bình (nay là huyện Nguyên Bình), tỉnh Cao Bằng. Binh lính ở đây có khoảng một trung đội chủ yếu là người bản xứ do một viên sĩ quan Pháp chỉ huy.
Vào 15h ngày 24/2/1944, từ căn cứ địa Cao Bằng, Đội VNTTGPQ do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã tổ chức xuất quân.
Sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị, 17h ngày 25/12/1944, các đội viên Đội VNTTGPQ đóng giả lính khố xanh tháp tùng một “ngài đội sếp” chỉ huy đi tuần rồi bất ngờ tập kích đồn Phai Khắt.
Bị đánh bất ngờ, lính trong đồn cùng một viên cai choáng váng, hoảng sợ vội vã đầu hàng … Trận đánh diễn ra trong vòng mươi phút.
Ngay sau khi kết thúc trận đánh, toàn đội hành quân ra vị trí cách đồng chừng 15 km để rút kinh nghiệm để tiến đánh đồn Nà Ngần cách đó 25 km. Tại đồn Nà Ngần có 22 lính khố đỏ do hai sĩ quan người Pháp chỉ huy.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm chiến trường Phai Khắt – Nà Ngần vào năm 1989. Ảnh tư liệu.
Sáng 26/12, khi sương mù còn chưa tan, các đội viên Đội VNTTGPQ sử dụng ngay trang phục của lính Pháp mới thu được ở đồn Phai Khắt cải trang làm lính dõng và lính tập dẫn theo 3 người dân tộc thiểu số bị trói giật cánh khuỷu ra sau lưng giả làm tù binh, khống chế tên lính gác rồi tiến thẳng vào đồn Nà Ngần.
Sau khi cả Đội tiến vào đồn, theo kế hoạch đã phân công, bốn chiến sĩ tiến tới gian giữa án ngữ giá để súng. Đồng chí Thu Sơn và Bế Văn Sắt nói chuyện với tên Đường để đánh lạc hướng. Tiểu đội 2 chặn các cửa đồn, sau đó chia thành từng tổ vây bắt tù binh. Tiểu đội 3 vừa bắn chỉ thiên vừa gọi lính trong đồn đầu hàng. Trận đánh diễn ra trong khoảng 20 phút.
Chiến thắng Phai Khắt và Nà Ngần mở đầu cho truyền thống Quyết chiến Quyết thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Trận Đông Khê – từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy
Trận Đông Khê là trận đánh then chốt mở màn Chiến dịch Biên Giới (từ ngày 16/9/1950 đến 14/10/1950), do Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái trực tiếp chỉ huy. Trận đánh nhằm tiêu diệt cụm cứ điểm Đông Khê, cô lập quân Pháp ở Cao Bằng, tạo điều kiện đánh viện binh địch trên Quốc lộ 4.
Video đang HOT
Bác Hồ thị sát chiến trường ở mặt trận Đông Khê trong chiến dịch Biên giới năm 1950. Ảnh: Vũ Năng An.
Đông Khê là cụm cứ điểm quan trọng trên tuyến phòng thủ Quốc lộ 4 của Pháp, cách Thất Khê 25 km về phía nam, cách thị xã Cao Bằng 45 km về phía bắc (nay là thị trấn Đông Khê, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng). Lực lượng Pháp gồm 2 đại đội lính lê dương và một trung đội ngụy quân, trang bị pháo 105 mm, 57 mm, pháo cối và hỏa lực mạnh khác.
Trận Đông Khê diễn ra 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, từ 6h ngày 16/9/1950 đến rạng sáng 17/9/1950. Giải phóng quân tiêu diệt các cứ điểm ngoại vi; tiến công địch liên tục, chiếm được 5 đồn tiền tiêu, nhưng chưa phát triển được. Quân Pháp tập trung hỏa lực và xung lực phản kích chiếm lại 3 đồn, gây cho giải phóng quân nhiều khó khăn.
Sang giai đoạn 2, từ 17h ngày 17/9/1950, Chỉ huy trưởng mặt trận để Trung đoàn 174 chuyển hướng đột phá từ hướng bắc sang hướng đông bắc nhằm kiềm chế quân Pháp, để tập trung lực lượng tiêu diệt địch trong trung tâm, đồng thời thay đổi hướng tiến công chủ yếu sang phía đông; hướng thứ yếu ở phía bắc và phía nam.
3h ngày 18/9, pháo binh quân giải phóng bắn vào các mục tiêu của Pháp trong trung tâm. Trên các hướng, bộ đội giải phóng xung phong tiến công và xuất hiện nhiều gương chiến đấu dũng cảm như Lý Văn Mưu, La Văn Cầu, Trần Cừ.
Lược đồ trận Đông Khê 1950. Nguồn: Tư liệu
4h30 sáng 18/9, giải phóng quân thọc sâu chiếm Sở chỉ huy, buộc số địch còn lại xin hàng, đến 10 giờ cùng ngày, ta làm chủ trận địa, trận đánh kết thúc.
Sau hơn 2 ngày chiến đấu với hình thức chiến thuật công kiên, giải phóng quân chiếm được cứ điểm Đông Khê, đập vỡ mắt xích quan trọng trên tuyến phòng thủ Quốc lộ 4 của Pháp. Trận đánh đã đánh dấu sự phát triển của quân đội Việt Nam, làm cơ sở cho sự hình thành chiến thuật sau này.
Thắng lợi của chiến thắng Đông Khê góp phần quan trọng cho thắng lợi của chiến dịch Biên giới, tạo nên bước ngoặt đưa cuộc kháng chiến từ chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy.
Chiến thắng Ấp Bắc – đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận”
Nhằm tiêu diệt gọn đơn vị chủ lực Quân giải phóng, quân Mỹ – quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân càn quét với quy mô lớn mang mật danh “Đức Thắng 1/13″ vào Ấp Bắc, thuộc xã Tân Phú Trung, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.
Sáng 2/1/1963, quân Mỹ – quân đội Sài Gòn bắt đầu cho lực lượng càn vào Ấp Bắc.
Trong trận Ấp Bắc, lực lượng Quân giải phóng được đặt dưới sự chỉ huy chung của Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 261 Võ Văn Hoàng (Hai Hoàng) và chỉ huy trực tiếp tại trận địa là Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 261 Đặng Minh Nhuận.
Chiến thuật “trực thăng vận” của Mỹ. Ảnh tư liệu
Trận chiến đấu diễn ra rất ác liệt, bắt đầu từ 5h sáng và kéo dài liên tục đến 20h ngày 2/1/1963. Quân Mỹ sử dụng chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” và huy động pháo binh, máy bay ném bom, bắn phá mãnh liệt vào trận địa của ta.
Các đơn vị của Quân giải phóng lợi dụng công sự, trận địa chuẩn bị sẵn đã đánh bại 5 đợt tiến công của địch.
Khẩu đại liên đã bắn hạ 8 máy bay Mỹ trong trận Ấp Bắc. Ảnh: TTXVN
Trận chống càn Ấp Bắc đã mở đầu đánh bại chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của Mỹ và quân đội Sài Gòn.
Chiến thắng của quân giải phóng tại Ấp Bắc đã đánh dấu sự thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, tạo nên bước ngoặt quan trọng cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân dân cả nước.
Thất bại tại Ấp Bắc đã đã làm rung chuyển giới báo chí Mỹ, làm cho người dân Mỹ quan tâm hơn đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhà báo Neil Sheehan (Mỹ) đã viết trong tác phẩm Sự lừa dối hào nhoáng: “Trận đánh này đã tác động đối với đối với toàn bộ cuộc chiến tranh”.
Chiến thắng Vạn Tường – bước ngoặt của kháng chiến chống Mỹ
Mùa hè năm 1965, với ưu thế quân sự vượt trội, quân đông, được trang bị vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, sức cơ động nhanh, vừa vào miền Nam, Mỹ đã cho quân viễn chinh mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt”, tiến công vào đơn vị Quân giải phóng.
Lược đồ chiến thắng Vạn Tường 1965
Nhận được tin báo của lực lượng trinh sát của Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, đóng quân ở vùng căn cứ Chu Lai, phát hiện có đơn vị chủ lực của quân giải phóng Việt Nam (Trung đoàn 1 mang tên Ba Gia, đơn vị chủ lực của Liên khu 5) đóng quân tại Vạn Tường (xã Bình Thiện, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Westmoreland liền ra lệnh cho lính thuỷ đánh bộ mở cuộc hành quân mang tên Ánh sáng sao (Starlite) đánh vào Vạn Tường, nhằm tiêu diệt Trung đoàn 1 Quân giải phóng, gây uy thế cho quân Mỹ.
Đêm 17/8/1965, hơn chục tàu chiến thuộc Hạm đội 7 – Mỹ đậu thành vòng cung ngoài khơi liên tục bắn đại bác vào thôn Vạn Tường và các điểm cao.
Sáng 18/8/1965, một lực lượng lớn quân Mỹ gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, 1 tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép, 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 6 tàu đổ bộ và pháo hạm cùng hàng trăm máy bay chiến đấu, mở cuộc hành quân phối hợp hải, lục, không quân tiến vào Vạn Tường.
Sau khi dùng pháo, máy bay bắn phá dọn đường, quân Mỹ liền chia thành 4 mũi tiến về Vạn Tường: 1 mũi theo đường bộ từ Chu Lai vào, 2 mũi đổ bộ đường biển và 1 mũi đổ bộ đường không.
Mỹ huy động lực lượng lớn trong trận đánh Vạn Tường 1965.
Trận đánh kéo dài đến chiều tối ngày 18, quân Mỹ bị đánh thiệt hại 4 đại đội. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ chẳng những không hợp điểm được tại thôn Vạn Tường theo ý định ban đầu, mà còn có nguy cơ bị sa lầy, bị diệt lớn. Hải quân Mỹ pháo kích dữ dội và dùng máy bay lên thẳng chở lực lượng dự bị từ hạm đội đang đậu ngoài khơi đổ xuống Vạn Tường.
Quân giải phóng tiếp tục tiến công cho đến khi màn đêm buông xuống thì trận đánh kết thúc. 900 lính Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu, 22 xe tăng, xe bọc thép, 13 máy bay bị bắn rơi.
Đêm 18 rạng 19/8/1965 lực lượng quân giải phóng miền Nam bí mật rút khỏi Vạn Tường an toàn.
Đánh giá về trận Vạn Tường, Tổng Bí thư Lê Duẩn từng nói: “Chúng ta cũng có thể coi trận Vạn Tường là một bước ngoặt chứng minh một cách hùng hồn rằng quân giải phóng miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh bại được quân đội Mỹ trong điều kiện chúng có mọi ưu thế tuyệt đối về binh khí và hỏa lực so với quân giải phóng”.
Hãng AP (Mỹ) đã thuật lại lời một số sĩ quan Mỹ đã tham dự cuộc hành quân “Ánh sáng sao”: “Quân giải phóng xuất hiện từ trong các hầm hố mà lính thuỷ đánh bộ không trông thấy. Họ xuất hiện thình lình cả đằng trước mặt và đằng sau lưng”.
Theo Tri Thức
Báo Trung Quốc nhận định lực lượng của Việt Nam ở Trường Sa
Báo Global Times của Trung Quốc mới đây viết: Việt Nam đóng giữ trên 29 đảo và rạn san hô ở quần đảo Trường Sa và có 2200 binh sỹ đóng trên các đảo.
Mới đây, Global Times - một tờ báo có lập trường dân tộc cực đoan của Trung Quốc đã có bài phân tích về lực lượng các nước trên vùng Biển Đông. Bài viết đã liệt kê ra 4 nước là Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Trong bài trước, chúng tôi đã trích dịch phần nói về Malaysia và Philippines. Trong phần còn lại này là nói về Việt Nam và Brunei. Sau đây là nội dung bài viết:
Việt Nam đóng trên 29 điểm đảo và rạn san hô
Từ đầu những năm 1970 đến đầu những năm 1990, Việt Nam đóng giữ trên 29 đảo và rạn san hô ở quần đảo Trường Sa (thuộc chủ quyền Việt Nam) và củng cố cơ sở hạ tầng phòng thủ của họ trong khu vực.
Chiến sĩ Hải quân Việt Nam tuần tra đảo. Ảnh minh họa.
Việt Nam đã sử dụng hai chiến lược phòng thủ. Việc đầu tiên là thiết lập vị trí phòng thủ bao gồm cấu trúc phòng thủ vĩnh viễn có người sinh sống và có thể phục vụ khi có chiến sự, tạo thành một cơ sở hạ tầng phòng thủ chiến lược. Thứ hai là thiết lập tiền đồn quân sự và phòng bảo vệ trên các nhà giàn, mở rộng các khu vực phòng thủ.
Lực lượng Việt Nam tập trung vào 9 hòn đảo và rạn san hô bao gồm đảo Trường Sa Lớn và Song Tử Tây. Điều kiện sống ở những căn cứ đó là thoải mái vì vậy có nhiều binh lính đang đóng quân ở đó. Các đảo Trường Sa Lớn và Nam Yết là đồn lũy phòng thủ cốt lõi của quân đội Việt Nam ở Biển Đông.
Việt Nam có 2200 binh sỹ đóng quân ở quần đảo Trường Sa, chủ yếu trang bị súng, xe tăng, tên lửa chống tăng và trực thăng vũ trang nhưng không có tên lửa đối hạm vì các hệ thống hỗ trợ phức tạp và cấu trúc bắn kiên cố mà nó yêu cầu không thể thiết kế được trên các đảo.
Đảo Trường Sa Lớn trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Một bộ ảnh trên báo Việt Nam cho thấy trên 9 đảo và rạn san hô chính mà Việt Nam quản lý có súng phòng không 23mm. 6 trong số 9 đảo và rạn san hô có pháo phòng không 37mm. 5 điểm đảo có pháo 85mm và hai điểm đảo có pháo 122m và pháo 130mm.
Tại 6 điểm đảo có xe tăng hạng trung T-54/55. Tại 4 điểm đảo có xe tăng lội nước PT-76. Tổng cộng có khoảng 120 khẩu pháo và 60 xe tăng.
Trên đảo Trường Sa và đảo Nam Yết, quân đội Việt Nam có một tiểu đoàn pháo 122mm, một đại đội pháo 85mm, một đại đội pháo 130mm, 2 đến 3 đại đội phòng không với pháo 23mm hoặc 37mm cùng 1 đại đội xe tăng. Máy bay trực thăng quân sự có thể cất cánh và hạ cánh trên ít nhất là 5 trong số các điểm đảo và rạn san hô và Việt Nam đang quản lý.
Súng phòng không tầm thấp trên quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Với sự bố trí này, có khả năng là khi bị tấn công, Việt Nam sẽ sử dụng pháo cỡ lớn của mình để chống lại các tàu chiến đối phương trong một cuộc đấu pháo tầm xa. Các khẩu pháo 130mm có tầm bắn 27 km, tầm bắn đó là tương đương với các pháo trên tàu khu trục. Phạm vi của các loại súng, pháo mà binh sỹ Việt Nam triển khai được chuẩn bị cho cả tầm xa, tầm trung và tầm gần phòng vệ để chống lại lính đổ bộ.
Lấy đảo Trường Sa là một ví dụ, trên đảo có 4 pháo với tầm bắn hơn 16km, 21 pháo có tầm bắn hơn 14km, 31 pháo có tầm bắn hơn 10km và 48 khẩu với tầm bắn hơn 2km. Quân đội Việt Nam cũng có thể sử dụng trực thăng để yểm hộ trên không.
Ngoài 9 điểm đảo lớn, quân đội Việt Nam cũng đóng quân tại các đảo và đá ngầm dễ bị tấn công. Nhưng trên các điểm như vậy thường chỉ bao gồm một nhà tạm bê tông hoặc nhà giàn với người lính chỉ trang bị vũ khí cá nhân.
Ngoài ra, một số đơn vị đặc biệt của quân đội Việt Nam được cho là đã được đào tạo cho nhiệm vụ đổ bộ vào quần đảo Trường Sa để phản kích giành lại đảo khi bị lấn chiếm.
Brunei không có hiện diện quân sự
Sau khi Brunei tuyên bố độc lập vào năm 1984, nước này tuyên bố chủ quyền đối với Louisa Reef. Brunei đã mua 3 tàu tuần tra ven biển vào năm 1994 sau khi Trung Quốc tuyên bố bãi đá này là một phần lãnh hải của họ và sau đó mua máy bay chiến đấu từ Anh. Mặc dù Brunei tuyên bố chủ quyền với Louisa Reef nhưng không có hiện diện quân sự trên đảo hay trên toàn bộ Biển Đông.
Theo NTD
Toàn cảnh các vũ khí mới của quân đội Việt Nam năm 2014 Trong tiến trình hiện đại hóa quân đội, năm 2014, một loạt các vũ khí, phương tiện hiện đại đã được trang bị cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Hải quân nhận nhiều tàu chiến Trong năm 2014, Hải quân Nhân dân Việt Nam đã nhận vào biên chế 2 tàu tên lửa Molniya, 2 tàu pháo TT-400-TP. Hôm 17/7, Lữ đoàn...