25 năm hải chiến Trường Sa (Kỳ 5): Mùa xuân nhớ con anh hùng
Dù bị giam cầm và tra khảo nhưng 9 người lính Gạc Ma bị Trung Quốc bắt giữ còn được trở về.
Tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại Trường Sa trên tàu Hải Quân trong những chuyến công tác ra quần đảo này
Họ may mắn hơn rất nhiều khi có nhiều gia đình đã mãi mãi tiễn con đi. Mùa xuân năm 1988 là cái tết cuối cùng của 9 người con trai ấy khi tuổi xuân của họ đã vĩnh viễn gửi lại Trường Sa thân yêu…
“Con đi mẹ hỉ!”
Trong trận hải chiến đảo Gạc Ma, quần đảo Trường Sa ngày 14/3/1988, Quảng Bình là nơi có nhiều liệt sĩ nhất với 13 người. TP.Đà Nẵng xếp sau với 9 liệt sĩ trong số 64 người hi sinh. Riêng khu vực P.Hòa Cường (cũ, nay chia thành P.Hòa Cường Nam và P.Hòa Cường Bắc), Q.Hải Châu đã có đến 7 liệt sĩ, 2 liệt sĩ còn lại ở P.Bình Hiên và P.An Hải Tây.
Bà Nguyễn Thị Trước, nay đã 81 tuổi, là mẹ liệt sĩ Phạm Văn Lợi kể về người con thứ 5 của mình: “Nó là đứa hiền lành, thương ba mẹ nhất nhà, từ nhỏ hễ đi học về là chạy qua cồn gánh rau phụ tui bán ở chợ, xong thì lên khu sân bay lượm ve chai về đưa cho tui đi bán”.
Tháng 3/1987, nghe tuyển quân đi bộ đội hải quân, Lợi về khoe đã đăng ký và được vào hải quân, phân vào Trung đoàn 83 công binh cùng nhiều thanh niên trong xóm. Cả nhà từ ông bà nội đến ba mẹ anh Lợi cũng đều vui lây vì thấy con cũng cùng chí hướng như 2 anh trai, phụng sự Tổ quốc.
Mẹ Nguyễn Thị Trước bên bàn thờ liệt sĩ Phạm Văn Lợi
Gần một năm sau, anh Lợi về ăn tết Mậu Thìn 1988 với gia đình. Anh bị ba là ông Phạm Đức Dần la rầy: “Răng mi mới đi một năm mà đã về rồi?”. Anh Lợi thưa rằng về ăn tết là được đơn vị cho phép, ăn tết xong là đi lại ngay.
“Lần về Tết đó, hắn cũng ít ở nhà. Hôm trước khi lên đường, thằng Lợi dẫn người yêu về giới thiệu một lúc rồi hai đứa đi chơi, con người yêu hắn chào “dạ thưa bác con đi” thì bị thằng Lợi chỉnh: “thưa mẹ con đi chứ răng lại thưa bác”, tui chưa kịp mừng vì nghĩ đến đám cưới ngày hắn ra quân thì nhận tin dữ”, bà Trước nhớ lại.
Năm 2012, Báo Thanh Niên đã tổ chức 2 đợt gặp gỡ, tri ân các gia đình 64 liệt sĩ hy sinh trong trận hải chiến bảo vệ đảo Gạc Ma, Trường Sa ngày 14/3/1988 tại từng địa phương. Báo Thanh Niên cũng đã trao 1,92 tỉ đồng, là số tiền bạn đọc, các nhà tài trợ hảo tâm ủng hộ cho 64 gia đình liệt sĩ (30 triệu đồng/gia đình).
Khoảng gần trưa 14/3/1988, vợ chồng bà Trước nghe tin sét đánh từ phường báo các chiến sĩ mất tích ở Trường Sa. Đám tang anh Lợi diễn ra trong mưa gió, căn nhà nhỏ đến nỗi hàng xóm qua viếng ướt nhem vì không có chỗ vào. Nhiều năm sau đó, đêm nào bà cũng mơ thấy anh Lợi với những lời động viên “mẹ đừng lo chi hết, con mạnh khỏe và ở với anh em ngoài đó rất vui vẻ”.
“Thằng Lợi thứ 5 nhưng với anh em trong nhà ai, ai nói chi nhưng nó vẫn không bao giờ cãi lời. Đến giờ, tui nhớ y chang bữa cơm ngày tết cuối cùng trước khi hắn đi, nhà không có chi ăn, hắn xuống lục xí bún với nước mắm ăn quẹt quẹt rồi thưa “con đi mẹ hỉ”, tui thấy xót xa vì từ nhỏ tới lớn ở nhà hắn chưa có được một bữa no, tui chưa chăm sóc chi cho hắn được nhiều, đến chừ cũng nhờ hắn mà đoàn thể thường xuyên đến thăm hỏi, thay hắn nuôi tôi…”, kể đến đây, bà Trước òa khóc.
Sau khi anh Lợi hy sinh, em trai kế là Phạm Văn Long được miễn đi nghĩa vụ quân sự. Đến lúc giải tỏa, nhà bà Trước không đủ tiền tái định cư tại chỗ nên đã chuyển lên Q.Cẩm Lệ sinh sống, hiện vẫn nợ tiền xây nhà và thuộc diện hộ nghèo của địa phương. Anh đầu là Phạm Văn Chung đã mất sớm vì bạo bệnh, hiện anh Long vẫn chưa lập gia đình, đi phụ hồ nuôi mẹ và em út Phạm Văn Tâm bị bệnh down từ nhỏ.
Mẹ Trước hiện vẫn đang chăm sóc em trai liệt sĩ Phạm Văn Lợi là anh Phạm Văn Tâm
Hai cha con ra đi cùng ngày
Cũng như liệt sĩ Phạm Văn Lợi, liệt sĩ Phan Văn Sự cũng đăng ký đi nghĩa vụ quân sự xong mới về nói với gia đình vào tháng 3/1987. Khi đó bà Lê Thị Muộn, mẹ anh Sự vừa thôi làm công nhân bốc vác ở Cảng Đà Nẵng, ba anh là ông Phan Văn Bé bị bệnh tim.
Video đang HOT
Di ảnh của liệt sĩ Nguyễn Mậu Phong, người cha đã khiến hai con lớn dần tình yêu Trường Sa
Tết Mậu Thìn 1988, anh Sự về ăn tết với gia đình đến 12 tháng giêng thì thưa rằng đơn vị cho anh ở nhà giữ doanh trại nhưng anh em trong khu vực Hòa Cường đi vào Cam Ranh từ hôm mùng 6 tết nên anh Sự xin đơn vị cho đi theo cùng.
Lúc đó ông Phan Văn Bé vừa mổ tim xong, sáng 14/3/1988, ông đang nằm tịnh dưỡng chờ cắt chỉ ở Bệnh viện Đà Nẵng thì nghe tin phát thanh báo chiến sĩ mất tích ở Trường Sa.
“Tôi ngồi cạnh ổng trong bệnh viện, ổng giật nảy người lên hỏi “chi rứa bà chi rứa bà” rồi lịm đi, đến 15 giờ chiều cùng ngày thì ổng đi theo thằng Sự”, bà Muộn ứa nước mắt.
Do đó, ngày 27 tháng giêng âm lịch hằng năm là ngày giỗ chung của cả chồng và con bà Muộn, nhưng mộ anh Sự trên nghĩa trang liệt sĩ Gò Cà hiện vẫn chỉ là mộ gió.
Kỷ vật duy nhất anh Sự để lại nơi đơn vị Trung đoàn 83 Công binh Hải quân là chiếc áo hải quân. Nhận áo về, bà Muộn tự tay cắt, sửa thành áo để mặc cho đỡ nhớ con đến tận bây giờ.
Không chỉ nhà bà Trước, bà Muộn, ông Trần Huỷnh (92 tuổi) cũng có 3 con trai vào lính là các anh Trần Cường, Trần Trọng, riêng con trai út là Trần Tài đã hy sinh trong trận hải chiến ngày 14/3/1988 ở Gạc Ma, Trường Sa.
Ngày 6/3/2013 (25 tháng giêng âm lịch), chúng tôi ghé thăm ông Trần Huỷnh trên đường Núi Thành, cũng đúng là lúc gia đình đang làm đám giỗ chung cho anh Tài và mẹ. Anh Tài hy sinh 14/3/1988 (27 tháng giêng Mậu Thìn), còn mẹ anh mất năm 2010 nhằm ngày 25 tháng giêng.
Bên mâm cơm chay tề tựu đông đủ bà con trong gia đình, anh Trần Trọng lúc nào cũng hát tặng trước bàn thờ liệt sĩ Trần Tài để tưởng nhớ người em út bởi lúc còn sống, anh Tài chơi đàn và hát rất hay.
9 liệt sĩ Đà Nẵng trong trận Gạc Ma ngày đó còn có anh Nguyễn Hữu Lộc, Trương Quốc Hùng, Nguyễn Phú Đoàn, Lê Văn Xanh (cùng ở P.Hòa Cường cũ), Lê Thế (P.An Hải Tây) và Trần Mạnh Việt (P.Bình Hiên).
Mẹ Lê Thị Muộn vẫn giữ và mặc chiếc áo kỷ vật của liệt sĩ Phan Văn Sự suốt 25 năm qua để đỡ nhớ con
Ông Trần Huỷnh thắp hương trong đám giỗ chung của con là liệt sĩ Trần Tài và vợ
Riêng cha mẹ 7 liệt sĩ ở Hòa Cường vốn từng là hàng xóm láng giềng từ trước, cho đến khi cùng mang nỗi đau mất con thì lại càng thâm tình. Những năm gần đây, do giải tỏa, nhiều gia đình chuyển đi xa và tuổi cao sức yếu nên họ ít có dịp thăm nom nhau như trước. Cho nên, hay tin được mời tham dự chương trình Tri ân chiến sĩ Trường Sa tại TP.Đà Nẵng ai cũng rất nóng lòng.
Bởi lẽ, đây không chỉ là dịp họ được gặp lại nhau, nhớ về những đứa con liệt sĩ anh hùng mà còn muốn truyền lại giới trẻ và xã hội về lòng yêu nước sục sôi, chống quân xâm lược Trung Quốc thuở nào…, về tinh thần hướng về Hoàng Sa, Trường Sa, bảo vệ Tổ quốc.
Gia đình… Trường Sa
Ngày 8/3/2013, nhằm ngày 27 tháng giêng âm lịch, cũng là ngày giỗ thứ 25 của liệt sĩ Nguyễn Mậu Phong, người đã hy sinh trong trận chiến Gạc Ma – Trường Sa vào ngày 14/3/1988. PV đã về thôn Hiển Lộc, xã Duy Ninh, huyện Quảng Ninh, Quảng Bình để dâng nén hương lên trước di ảnh của anh. Gặp lại tôi, chị Trần Thị Liễu (vợ liệt sĩ Nguyễn Mậu Phong) bắt tay vui mừng rồi khoe phần nhà mới to đẹp được xây dựng sau khi nhận tiền hỗ trợ từ chương trình “Tri ân liệt sĩ Gạc Ma” vào tháng 5/2012. Vợ chồng anh chị có 2 người con trai đó là Nguyễn Mậu Trường (SN 1985) và Nguyễn Tiến Xuân (SN 1987) thì cả hai đều là chiến sĩ và đã làm nhiệm vụ tại quần đảo Trường Sa, nơi ba mình ngã xuống.
Riêng với Tiến Xuân thì tình yêu đối với người lính hải quân, với biển đảo, xen lẫn sự căm hờn lúc nào cũng cháy bỏng. Quyết thi vào Học viện Hải quân và hiện giờ Xuân đã khoác áo lính được 6 năm và cũng đang công tác ở Trường Sa. Lúc nào Xuân cũng mang theo tất cả thư từ, kỷ vật của liệt sĩ Nguyễn Mậu Phong bên người. Mới đây, ngày mùng 3 tết, Xuân đặt chân lên vùng biển đảo mà 25 năm trước, ba mình đã vĩnh viễn nằm xuống. Lúc đó, Xuân điện thoại về bảo mẹ thắp hương cho ba cầu khấn để Xuân được gặp ba một lần. Nhưng làm sao có thể gặp được giữa trùng khơi biển lạnh, thế là Xuân òa khóc nức nở. (T.Q.Nam)
Mơ trở lại Trường Sa
Ngày trở về, việc đầu tiên anh Dương Văn Dũng (Đà Nẵng) làm là sang thắp hương cho liệt sĩ Phạm Văn Lợi, là người “ăn cùng mâm, ngủ cùng chiếu” với anh từ nhỏ cho đến khi cùng vào đơn vị. Nhưng sau trận hải chiến Gạc Ma, chỉ còn anh Dũng, anh Phan Văn Đức còn sống.
Cũng như Dũng, bạn cùng xóm của anh Đức là liệt sĩ Lê Thế đã hy sinh. Rời doanh trại về Đà Nẵng, anh Đức đến nhà thắp hương và kể lại chuyện với bác Trần Thị Huệ là mẹ Thế. Bác Huệ ngất xỉu vì lúc đó mới thật sự tin Thế đã hy sinh.
“Ước nguyện lớn nhất của tôi là mong một lần trở lại Gạc Ma để thắp cho đồng đội nén nhang “, anh Dũng nói.
Kết thúc câu chuyện về những ngày tháng không thể nào quên, anh Trương Văn Hiền (Đăk Lắk) tâm sự: “Trải qua cuộc chiến sinh tử nhưng thoát khỏi cái chết, được trở về quê hương là may mắn, hạnh phúc lớn nhất trong đời nên dù sống khổ như thế nào cũng cố gắng chịu đựng. Tôi chỉ có mong ước là cùng những anh em sống sót trong trận chiến năm xưa ra thăm lại Trường Sa để thắp nén nhang, thả vòng hoa xuống biển tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh. Nhưng điều này sẽ khó thực hiện nếu không có đơn vị cũ giúp đỡ”.
Riêng Lê Hữu Thảo, từ ngày trở về từ Trường Sa, anh có hai điều tâm nguyện. Một là có ngày được về quê Trần Văn Phương, thăm mẹ anh Phương và thắp nén nhang trước mộ anh. Điều thứ nhất anh vừa hoàn thành cũng trong ngày tháng ba vừa qua.
Ước nguyện thứ hai tuy đơn giản nhưng chưa biết bao giờ mới thành hiện thực. Đó là: “Một lần ra lại Trường Sa, để được gọi tên đồng đội cũ, được thả một vòng hoa trắng xuống biển xanh để tưởng nhớ những người mãi mãi nằm lại dưới đó”…
“Cuộc chiến đấu dũng cảm, kiên cường của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146 bảo vệ chủ quyền đảo Gạc Ma, Trường Sa đã nêu một tấm gương sáng về lòng trung thành của người lính, quyết tâm bảo vệ đến cùng từng tấc đất của Tổ quốc. Sau trận chiến này, ngoài 64 anh hùng liệt sĩ đã hy sinh, đồng chí Nguyễn Văn Lanh với hành động giữ vững ngọn cờ Tổ quốc trên đá Gạc Ma đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Trung đoàn 83 được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng hai… Điều quan trọng nhất, sự hy sinh của các chiến sĩ trong trận hải chiến làm cho nhân dân khắp nơi phát động phong trào ủng hộ vật chất xây dựng Trường Sa, lực lượng cán bộ chiến sĩ càng quyết tâm bám đảo dù cho phía Trung Quốc tiếp tục khiêu khích căng thẳng. Do đó, lịch sử Trung đoàn công binh 83 Hải quân đã đánh giá: “Sau sự kiện 14.3.1988, đơn vị đã hoàn thành một khối lượng công việc bằng nhiều năm trước đó cộng lại, đặc biệt có những công việc lần đầu thực hiện được như phá đá mở luồng ở một số đảo, lần đầu xây dựng nhà cấp 1…”, Thượng tá Hoàng Văn Hoan, nguyên Bí thư Đảng ủy, Phó chỉ huy chính trị Trung đoàn 83 Công binh Hải quân.
Theo xahoi
25 năm hải chiến Trường Sa (Kỳ 4): Cuộc trở về của Nguyễn Văn Lanh
Địch hạ cờ xuống, Lanh lại dựng lên, cho đến khi anh bị quân Trung Quốc dùng lưỡi lê đâm và bắn vào người...
Anh Lanh, anh Thống đến thăm nhà anh Nhuân (áo xanh), họ là những đồng đội trên tàu HQ 604
Trong cuộc chiến giữ đảo Gạc Ma, chiến sĩ trẻ Nguyễn Văn Lanh đã anh dũng chiến đấu giữ ngọn cờ Việt Nam cắm trên đảo, kiên quyết giằng co không cho lính Trung Quốc cắm cờ. Địch hạ cờ xuống, Lanh lại dựng lên, cho đến khi anh bị quân Trung Quốc dùng lưỡi lê đâm và bắn vào người...
Từ buổi sáng 14/3/1988 bi hùng ở Gạc Ma, những người lính trên con tàu HQ 604 không còn uống chung chén nước, ăn chung chén cơm, ngủ chung giường nữa. Mỗi người lưu lạc một phương trời.
Những ngày đầu tháng 3/2013, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Lanh tranh thủ về thăm nhà tại làng quê yên bình Đại Phúc, xã Vạn Ninh, H.Quảng Ninh, Quảng Bình.
Bữa cơm giản dị của gia đình Anh hùng Nguyễn Văn Lanh tại quê nhà
Hiện mẹ anh, bà Nguyễn Thị Kỷ (77 tuổi) sống một mình trong ngôi nhà nhỏ, là nơi anh sinh ra và lớn lên. Những ngày anh Lanh về quê, nhà bà Kỷ lúc nào cũng đông vui như lễ tết. Mọi người tập trung lại ăn cơm, uống chén rượu gạo và chuyện trò.
Người vui nhất không ai khác là bà Kỷ, cái miệng móm mém của bà không lúc nào thôi cười. Bà nhớ như in chuyện cách đây 25 năm và kể với tôi rành mạch.
Ngày đó, khi mới xảy ra sự kiện quân Trung Quốc tấn công chiếm đảo Gạc Ma, bà chỉ biết loáng thoáng tình hình qua Đài tiếng nói VN, càng về sau càng rõ hơn. "Nhưng họ cũng chỉ nói là một người tên Lanh, Lanh thì cả nước có biết bao nhiêu Lanh chứ. Lúc đó tui cũng lo lắm nhưng nghĩ thôi vì lòng căm thù giặc, vì nghĩa vụ với Tổ quốc, con mình có nằm xuống vì đất nước cũng đành" - bà Kỷ nhớ lại.
Mãi hơn 1 tháng sau, khi nhận được thông tin chính xác từ đơn vị, bố anh Lanh (đã mất) và người anh trai Nguyễn Thanh Long khăn gói vào miền Nam thăm anh tại đơn vị. Bà Kỷ cũng muốn đi nhưng vì hoàn cảnh, điều kiện nên phải ở nhà. Gặp lại nhau ở bệnh viện, mấy cha con mừng rơi nước mắt, cứ ôm nhau khóc.
Anh Nguyễn Văn Lanh tâm sự về chuyện muốn đi thăm bạn bè - những đồng đội cũ - trên con tàu lịch sử HQ 604 tại Quảng Bình. Anh bảo: "Bao nhiêu năm, mấy lần đi công tác, về quê nhà, đã hẹn với nhau rồi nhưng cuối cùng chẳng đi được vì trời trở rét, vết thương lại nhức buốt nên phải quay vô TP.HCM cho ấm hơn và để trị bệnh".
Nghe thế, tôi nói ngay: "Anh muốn đi đâu em cũng đưa đi, máu xương các anh đã đổ xuống vì Tổ quốc mà". Anh nhìn tôi không nói lời nào nhưng ánh mắt sáng lên.
Bà Kỷ (mẹ anh Lanh) nâng niu tấm danh hiệu của con trai
Ngày giỗ sống
Chúng tôi lên đường và từ đây, một cuộc trở về lịch sử không hẹn mà gặp bắt đầu. Từ xã Vạn Ninh, chúng tôi theo đường Hồ Chí Minh về quốc lộ 1A, men theo đường biển Quang Phú rồi ra xã Nhân Trạch để đón anh Nguyễn Văn Thống, người bị Trung Quốc bắt 3 năm và gia đình đã nhận giấy báo tử. Tiếp tục theo QL 1A ra thị trấn Ba Đồn, đến vùng nam huyện Quảng Trạch đến nhà anh Trương Đức Nhuân ở thôn Thọ Hạ, xã Quảng Sơn.
Trên suốt quãng đường từ Vạn Ninh đến xã Quảng Sơn, điều tôi băn khoăn đó là 25 năm trôi qua, liệu các anh có còn nhận ra nhau. Anh Lanh khẳng định: "Nhớ chứ, mặc dù tụi anh không gặp nhau nhưng sao mà quên được từng nét mặt, hành động, cử chỉ và không gặp nhưng cũng thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại. Nghe tin bạn gặp tai nạn, anh cũng gửi tiền ra cho bạn, sống với nhau phải bằng tình cảm chân thật em à".
Các anh gặp lại nhau ở nhà anh Nhuân trong niềm vui vỡ òa, 25 năm rồi chứ ít ỏi gì nữa. Điều đầu tiên là các anh xắn quần, vạch áo sờ lên từng vết sẹo của nhau.
Ngày ấy, ở tuổi đôi mươi, lứa tuổi vô tư hồn nhiên nhất, thì các anh đã gắn bó với nhau trong những buổi tập luyện trên thao trường, những lúc sinh hoạt trong doanh trại. Thời ấy, điều kiện kinh tế khó khăn, các anh nhường nhau từng miếng cơm, manh áo, có cái gì ngon cũng chia sẻ với nhau. Anh Lanh kể, mình làm nhiệm vụ đơm cơm cho cấp trên, thế là mình cố tình đơm cho thật nhiều, thành ra chỉ huy ăn không hết, phần thừa đó mình kêu mấy đứa lên lấy ăn. Ở nhà bếp còn cơm cháy, anh cũng kêu. Những trò "tăng gia sản xuất" có một không hai cũng được các anh ôn lại rồi cười vui vẻ.
Ở cái tuổi tóc đã muối tiêu, các anh vẫn gọi với nhau bằng "tau" và "mi". "Gọi thế cho sướng miệng, bọn anh là bạn bè mà, gặp nhau chưa đầy 3 năm để rồi phải xa nhau từ đó cho đến bây giờ" - các anh bộc bạch.
Với anh Lanh, từ lúc còn ở đơn vị, mọi người gọi anh là "lép" bởi dáng người gầy ốm, mỏng manh. Đến bây giờ Lanh vẫn thế. Vừa chạm nhau, anh Nhuân đưa tay còn lại vỗ vai anh Lanh cái đốp rồi nói: "Hắn đúng là lép rồi, lép chừ vẫn là lép. Mẹ mi ơi, lấy cơm với thịt cho thằng lép hắn ăn".
Lép nhưng lì. Nhớ lại ngày 14/3/1988, các anh Thống, Nhuân đều bảo: "Hắn lì lắm, có sợ chi lính Trung Quốc. Hắn giằng nhau với lính Trung Quốc để giữ cờ, khi bọn kia giơ súng, hắn nổi điên nhảy lên đạp một phát".
Và máu anh đã đổ xuống. Trong cơn sinh tử giữa biển khơi, đồng đội anh đã kịp cứu, mang sự sống đến với anh. Trong căn nhà nhỏ ở Quảng Sơn hôm ấy, anh Lanh nói: "Hôm nay là kỷ niệm ngày giỗ sống của chúng ta".
Điều đặc biệt, một trong hai người đưa anh Lanh đang chìm lên tấm ván nổi trên mặt nước là chiến sĩ Nguyễn Văn Lục (ở xã Quảng Thủy, H.Quảng Trạch) hiện đang ngồi đối diện với anh Lanh.
Anh Lục kể: "Lúc đó, chúng tôi đưa Lanh và anh Tứ bỏ lên tấm ván, sau đó bỏ lên xuồng nhôm, cùng với anh em đồng đội còn sống chèo về đảo Sinh Tồn, đang chèo thì gặp một tàu dân sự làm nhiệm vụ cung cấp lương thực cho các đảo và được đưa lên tàu. Nhưng sau đó tàu Trung Quốc kè không cho đi nên mãi từ trưa cho đến 10 giờ tối cùng ngày mới đến được đảo Sinh Tồn. Tứ bị cụt 1 chân, máu ra nhiều quá nên mất; còn Lanh may mắn qua khỏi".
Những chiến sĩ hải quân năm xưa (4 người ở giữa) chụp ảnh kỷ niệm cùng PV (thứ 2 từ trái qua)
Trà rượu một hồi, anh Lanh nổi hứng tinh nghịch như thời đang cùng nhau huấn luyện ở Đà Nẵng. Anh Lục cũng không chịu thua khi bảo: "Biết thế bữa đó tau không đưa hắn lên". Rồi tất cả cùng cười vui.
Kể về anh Lanh, anh Nguyễn Đình Phùng (ở xã Quảng Tân, H.Quảng Trạch; lúc đó làm khí tài) vẫn không quên hình ảnh lúc tàu HQ 604 chuẩn bị rời bến ra đảo, anh Lanh còn tìm gặp để hỏi xin một lưỡi lê.
Chiều muộn, dù không muốn vẫn phải rời, Anh hùng Nguyễn Văn Lanh tạm biệt đồng đội trở lại quê nhà. Đã có những đôi mắt ứa nước khuất dưới mái tóc điểm bạc. Các anh mạnh mẽ sống chết cùng nhau vì Tổ quốc nhưng phút chia tay ai chẳng ngậm ngùi.
Theo xahoi
25 năm hải chiến Trường Sa (Kỳ 2): Những người con anh hùng Chúng nhanh chóng hạ xuồng, cho quân đổ bộ vào đảo, gần 50 tên lính Trung Quốc chĩa súng đứng thành hình vòng cung bao vây chúng tôi. Vòng hoa trên biển Đông tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ Trường Sa Như một thước phim quay chậm, cận cảnh vào từng nhát cắt bi hùng Gạc Ma, dòng hồi tưởng của cựu...