25 năm hải chiến Trường Sa (Kỳ 2): Những người con anh hùng
Chúng nhanh chóng hạ xuồng, cho quân đổ bộ vào đảo, gần 50 tên lính Trung Quốc chĩa súng đứng thành hình vòng cung bao vây chúng tôi.
Vòng hoa trên biển Đông tưởng niệm các anh hùng, liệt sĩ Trường Sa
Như một thước phim quay chậm, cận cảnh vào từng nhát cắt bi hùng Gạc Ma, dòng hồi tưởng của cựu chiến binh Lê Hữu Thảo (quê Hà Tĩnh) khắc họa chân thật nhất giây phút ngạo mạn, man rợ của quân xâm lược Trung Quốc. Giây phút ấy cũng làm nên huyền thoại của những người anh hùng đất Việt.
Trong trận chiến Gạc Ma, anh Lê Hữu Thảo chính là người đã cứu mạng anh hùng Nguyễn Văn Lanh, cũng là người tìm và bảo quản xác của Anh hùng lực lượng vũ trang Trần Văn Phương, người đã ngã xuống để giữ cho cờ Tổ quốc tung bay tại đây.
Lê Hữu Thảo (quê ở xã Hương Thủy, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) tính tình vui vẻ, gương mặt trẻ hơn nhiều so với tuổi thực.
Tháng 12/1986, anh lên đường nhập ngũ. Hết thời gian huấn luyện tân binh, anh được biên chế vào Lữ đoàn 147 Quân chủng Hải quân, sau đó về Tiểu đoàn 3, tiểu đoàn chiến đấu thuộc Lữ đoàn 147. Đầu năm 1988, đơn vị anh nhận lệnh tăng cường cho Lữ đoàn 146 đóng tại quân cảng Cam Ranh, Khánh Hòa. Sau khi vào Cam Ranh, đơn vị anh được được bổ sung vào một đại đội mới được thành lập để đi làm nhiệm vụ đặc biệt tại Trường Sa. Trần Văn Phương chính là đại đội phó của anh, còn anh được cử làm tiểu đội trưởng.
Phải thuyết phục rất nhiều lần, cựu chiến binh Lê Hữu Thảo, người đã tham gia chỉ huy việc cắm cờ Tổ quốc trên đảo Gạc Ma mới gật đầu cho chúng tôi chép lại những dòng hồi ức về khoảnh khắc đó. Bởi mỗi lần nhắc lại lịch sử là mắt anh đỏ hoe vì nhớ đồng đội, trang hồi ức mà chúng tôi chép lại dưới đây cũng nhòe đi khi anh Thảo nhắc đến những người đã mãi mãi nằm lại giữa biển khơi, hòa xương máu của mình vào từng cánh sóng, ngày đêm vỗ về đất mẹ.
Anh Thảo xúc động khi kể về trận chiến Gạc Ma ngày 14/3/1988
Anh Thảo chậm rãi kể:
“Chiều 13/3/1988, sau khi vượt trên 400 hải lý trong thời tiết giông tố thì tàu cập bãi đá ngầm Gạc Ma. Tại đây, chúng tôi đã đối mặt với tàu chiến của Trung Quốc. Chúng tôi bắc tay làm loa nói về phía tàu Trung Quốc: “Đây là lãnh thổ của nước CHXHCN Việt Nam, yêu cầu tàu Trung Quốc phải lập tức rời khỏi khu vực này”. Phía Trung Quốc cũng phát tín hiệu yêu cầu chúng tôi rời Gạc Ma. Sau một hồi đôi co, tàu chiến Trung Quốc bỏ đi.
Tối hôm đó, chúng tôi quây quần bên nhau, vì mới về cùng đơn vị nên hầu như anh em chưa biết mặt, thuộc hết tên của nhau. Chúng tôi vui vẻ trò chuyện về đời tư, quê quán, hoàn cảnh gia đình của nhau. Hầu hết cán bộ chiến sĩ đều bình tĩnh trước sự khiêu khích của phía Trung Quốc. Mọi người bảo nhau đi ngủ để lấy sức ngày mai tiếp tục làm nhiệm vụ.
Rạng sáng 14/3/1988, chúng tôi dậy từ rất sớm. Tôi được anh Phương (Trần Văn Phương) và anh Phong – đại đội trưởng – giao nhiệm vụ xuống bãi đá ngầm để chỉ huy việc cắm cờ. Tôi cùng anh Phương, anh Phong, cậu Tư, cậu Chúc lên xuồng công binh đi vào đảo Gạc Ma.
Mấy anh em lội vào đảo, cắm một cây cọc cao chừng 3 m để làm thân buộc cán cờ vào đó. Thủy triều bắt đầu lên, trên tàu, anh em công binh chuẩn bị bốc vật liệu để chở vào đảo xây nhà giàn phục vụ việc đóng quân, khẳng định chủ quyền của Việt Nam.
Lúc đó, cậu Lanh ở đơn vị công binh E83 đang ở trên tàu cũng nhảy xuống bơi vào chỗ mấy anh em đang chuẩn bị cọc cắm cờ. Cùng lúc đó, có 3 chiếc tàu chiến Trung Quốc xuất hiện. Chúng nhanh chóng hạ xuồng, cho quân đổ bộ vào đảo, gần 50 tên lính Trung Quốc chĩa súng đứng thành hình vòng cung bao vây chúng tôi. Khoảng cách giữa chúng tôi và lính Trung Quốc rất gần nhau, chỉ khoảng chừng 1 m.
Sau khi đổ bộ, chúng còn cho xuồng máy chạy vòng quanh tàu HQ 604, chĩa súng đại liên lên tàu khiêu khích. Lúc đó, chúng tôi và anh em trên tàu hết sức bình tĩnh, thậm chí còn móc gói thuốc lá Mai chia nhau hút, động viên nhau tiếp tục làm công việc của mình.
Mặc cho phía Trung Quốc liên tục khiêu khích, có thái độ trấn áp, các anh em công binh vẫn tiếp tục bốc vật liệu xuống xuồng và chở vào đảo, trên xuồng lúc đó có hơn 10 người. Khi xuồng công binh vào đến bãi cạn, lá cờ Tổ quốc được anh em chuyền tay nhau đưa vào cọc để cắm.
Khi quốc kỳ Việt Nam từ anh Phong trao đến tay anh Phương bắt đầu tung bay thì tên chỉ huy rút súng bắn chỉ thiên, ra lệnh cho quân lính nổ súng. Lúc đó, anh Phương đang cầm lá cờ Tổ quốc nên bị chúng bắn đầu tiên. Anh Phong, anh Phương và nhiều chiến sĩ công binh hy sinh ngay tại chỗ.
Súng AK, súng máy hạng nặng, pháo từ 3 tàu chiến Trung Quốc bắn xối xả vào bộ đội ta trên đảo và tàu HQ 604. Cả tàu HQ 505 tại đảo Cô Lin, tàu HQ 605 tại đảo Len Đao cũng bị pháo kích nặng nề.
Video đang HOT
Tôi và cậu Tư bị ba tên lính Trung Quốc đứng rất gần chĩa súng vào ngực định bắt sống. Khi một tên vừa nắm lấy Tư thì tôi xông vào cứu, một tên khác dùng lưỡi lê đâm thẳng nhưng tôi may mắn tránh được. Tôi không cứu được Tư và phải lặn sâu xuống nước để tránh được đạn. Mỗi khi tôi ngoi lên lấy hơi là chúng lại xả súng bắn. Không hiểu sao tôi lại may mắn không bị thương khi khoảng cách giữa tôi và bọn chúng rất gần, súng chúng bắn xối xả mà không trúng. Khi tôi lặn ra phía xa ngoi lên thì thấy lửa đạn bao trùm tàu HQ 604 và chỉ trong chốc lát tàu chìm hẳn.
Cựu binh Lê Hữu Thảo trở về gặp mạ (mẹ) của liệt sĩ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Trần Văn Phương để thắp nén nhang tưởng nhớ người chỉ huy của mình vào tháng 3/2013
Sau khi tàu của ta chìm, quân Trung Quốc nhanh chóng rút lên lên tàu của chúng. Một số ít lính của chúng rút ra xa phía góc đảo và không bắn nữa. Tôi bơi trở lại thì thấy chiếc xuồng công binh bị bắn thủng, hư hỏng nặng. Có khoảng 6 đồng đội sống sót đang bám vào mạn xuồng. Tôi bảo mọi người nhanh chóng tản ra, nếu như quân Trung Quốc tiếp tục pháo kích thì còn đỡ thương vong. Bản thân tôi tiếp tục bơi đi tìm những đồng đội bị thương, bị hy sinh.
Tôi và Chúc cứu được cậu Lanh bị thương nặng và vớt được xác của anh Phương đưa lên xuồng. Tôi tiếp tục bơi lại nơi tàu chìm và tìm thấy anh Hải bị thương nặng (anh Hải hiện nay đang là Phó tham mưu trưởng BCH quân sự tỉnh Thanh Hóa). Lúc này, thủy triều đã lên cao, nước chảy mạnh, chúng tôi đã rất mệt nên không thể bơi được nữa. Đến quá trưa, nước đã lên quá đầu, chúng tôi bảo nhau xé áo nút những chỗ thủng lại, dùng tay tát nước ra ngoài. Lúc đó, trên xuồng có thương binh và thi thể anh Phương nên một số anh em phải bám vào hai bên mạn xuồng, dùng tay chèo về phía tàu HQ 505.
Bơi được khoảng một tiếng thì chúng tôi tìm được cậu Hưng, quê ở Hải Phòng, là máy trưởng tàu HQ 604 đang bơi trên biển. Cũng lúc đó, tàu HQ 505 phát hiện thấy chúng tôi và cho xuồng máy ra đón về, đến khoảng 4 giờ chiều thì chúng tôi lên được tàu HQ 505.
Tối hôm đó, chúng tôi đưa thi thể anh Phương về đảo Sinh Tồn lớn. Cả đêm hôm đó, tôi và Chúc thức trắng đêm để túc trực bên cạnh xác anh Phương. Sáng hôm sau, đơn vị trên đảo đã tổ chức an táng anh Phương theo nghi thức quân đội.
Khoảng 10 ngày sau thì chúng tôi được tàu của quân chủng ra đón về đất liền. Nghe tin, đồng bào cả nước quan tâm chúng tôi lắm. Rất nhiều quà, thư từ, sách báo được đồng bào, đồng chí trên cả nước gửi đến động viên. Xúc động lắm!”.
Lễ truy điệu các liệt sĩ hy sinh bảo vệ chủ quyền quần đảo Trường Sa trong sự kiện ngày 14/3/1988 – Ảnh tư liệu
Sau bao năm bôn ba, tìm về đồng đội cùng các mạ của anh em đơn vị, người cựu chiến binh Lê Hữu Thảo đúc kết: “Nếu nói đây không phải là một trận chiến cũng không sai. Chính xác đây là một sự kiện, sự kiện quân xâm lược Trung Quốc bất ngờ nổ súng sát hại bộ đội ta. Chúng ta yêu chuộng hòa bình, chủ trương giải quyết tranh chấp bằng con đường hòa bình, không sử dụng vũ lực. Chính quân Trung Quốc đã lợi dụng điều này để bất ngờ xả súng vào bộ đội của ta”.
Anh hùng Gạc Ma – Trường Sa
Sự anh dũng hy sinh và chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ trong trận hải chiến Gạc Ma – Trường Sa luôn được những thế hệ sau nhắc đến.
Một năm sau trận hải chiến ngày 14/3/1988, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước CHXHCN Việt Nam đã phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho:
Anh hùng Vũ Huy Lễ (sinh năm 1946, quê ở xã Thái Thọ, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Trú quán xã Đằng Hải, huyện An Hải, TP.Hải Phòng. Khi được tuyên dương Anh hùng, anh là thiếu tá, thuyền trưởng tàu HQ505, lữ đoàn 125 hải quân).
Anh hùng Nguyễn Văn Lanh (sinh năm 1966, quê ở xã Vạn Ninh, huyện Lệ Ninh, tỉnh Quảng Bình. Khi được tuyên dương Anh hùng, anh là trung sĩ, tiểu đội trưởng công binh thuộc đại đội 9, tiểu đoàn 887, trung đoàn 83, Quân chủng Hải quân)
Anh hùng liệt sĩ Trần Văn Phương (sinh năm 1965, quê ở xã Quảng Phúc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Khi hy sinh anh là thiếu úy, Phó chỉ huy trưởng đảo Gạc Ma, lữ đoàn 146 Vùng 4 hải quân.)
Anh hùng liệt sĩ Vũ Phi Trừ (sinh năm 1957, quê ở xã Quảng Khê, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Khi hy sinh anh là đại úy, thuyền trưởng tàu HQ604 thuộc lữ đoàn 125, Quân chủng Hải quân)
Anh hùng liệt sĩ Trần Đức Thông (sinh năm 1944, quê ở xã Minh Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Khi hy sinh anh là trung tá, Phó lữ đoàn trưởng lữ đoàn 146, Vùng 4 thuộc Quân chủng Hải quân, nguyên Phó chủ tịch UBND huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa)
Ngoài ra, tàu HQ-505, với nhiệm vụ vận chuyển vật liệu cho bộ đội xây dựng công trình ở quần đảo Trường Sa, khi ấy đã mở hết tốc độ lao lên bãi ngầm ở đảo Cô Lin cắm cờ khẳng định chủ quyền Tổ quốc. Khi thấy tàu HQ-604 ở đảo Gạc Ma bị địch bắn cháy và chìm, cán bộ chiến sĩ tàu HQ-505 đã dùng xuồng cao su cơ động dưới làn hoả lực của địch đến cứu được 44 thương binh đưa về nơi an toàn. Tàu HQ-505 cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. (Trích tài liệu của Hội Khoa học lịch sử Bình Dương).
Theo xahoi
25 năm hải chiến Trường Sa Kỳ 1: Cuộc xâm lược bất ngờ của Trung Quốc
25 năm trước, ngày 14/3/1988, 64 người con đất Việt đã ngã xuống biển Đông trước họng súng quân xâm lược Trung Quốc.
Bức tranh miêu tả cuộc chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988 đang được trưng bày tại Phòng Truyền thống của Vùng 4 Hải quân
Sự hy sinh anh dũng của những người lính Việt Nam đã biến địa danh Gạc Ma (thuộc cụm đảo Sinh Tồn, quần đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa) trở thành bất tử.
Những ngày tháng 3 này dường như đang trôi nhanh đối với hơn 50 cựu chiến binh, thân nhân của những liệt sĩ từng chiến đấu ngoan cường nơi Gạc Ma khi họ hội ngộ cùng nhau. Chúng tôi đã tìm gặp những người anh hùng năm xưa, những người thân nơi quê nhà của họ để nghe kể về cuộc chiến bi hùng này.
Tháng 3/2013, trời Đà Nẵng chuyển lạnh đột ngột vì gió mùa đông bắc, cơ thể hai cựu binh của trận hải chiến Gạc Ma 1988 là Phan Văn Đức và Dương Văn Dũng cũng trở chứng theo. Nhưng không chờ những cơn đau của những thương tích ấy "nhắc nhở", trong lòng họ vẫn đau đáu một ký ức như mới ngày hôm qua.
Ra đi
Năm 1988 anh Phan Văn Đức chiến đấu ở Gạc Ma, Trường Sa. Nay, anh ở trong căn nhà nhỏ nằm trong con hẻm đường Hoàng Sa ven biển (P.Mân Thái, Q.Sơn Trà, TP.Đà Nẵng).
Càng đến gần ngày 14/3, anh Đức càng khó ngủ. Mờ sáng, anh bước vài bước ra quán cà phê Biển Đảo của ngư dân câu mực Trần Văn Mười và nhìn đăm đăm ra phía biển.
Anh Đức nguyên trú khu vực tổ 5 An Thị (P.An Hải Tây, Q.Sơn Trà), lớn lên bằng nghề bốc xếp và đi biển. Tuổi đôi mươi, anh cùng người bạn thân là liệt sĩ Lê Thế ở gần nhà nhập ngũ vào tháng 3/1987.
Cựu binh Phan Văn Đức với vết sẹo trên vai trái do quân Trung Quốc bắn
Nhập ngũ cùng thời gian còn có anh nông dân Dương Văn Dũng, tạm biệt đám ruộng ở khu vực Bình An (nay thuộc P.Hòa Cường Bắc, Q.Hải Châu, TP.Đà Nẵng). Sau 6 tháng huấn luyện ở Hội An, họ được giao về Trung đoàn 83 công binh (Vùng 3 Hải quân) đóng tại Q.Sơn Trà, TP.Đà Nẵng.
Anh Đức được phân công làm anh nuôi cho đơn vị, còn anh Dũng là lính công binh. Một đêm đầu tháng 3.1988, mọi người nhận nhiệm vụ đi Cam Ranh, Khánh Hòa và sau đó lên tàu HQ 604 thẳng tiến ra Trường Sa.
Anh Dũng kể, 20h ngày 11/3, anh cùng mọi người lên tàu HQ 604 của Lữ đoàn 125 do Vũ Phi Trừ làm thuyền trưởng, đưa 70 công binh Trung đoàn 83 và 22 chiến sĩ Lữ đoàn 146 rời Cam Ranh.
Anh Dương Văn Dũng trong ngôi nhà vừa mới xây dựng và cô con gái út
Khoảng 15h ngày 13/3, tàu đến đảo Gạc Ma và tiến hành làm dây, hạ xuồng, đưa vật liệu vô để chuẩn bị xây dựng.
Thế nhưng chỉ khoảng 1 tiếng sau là tàu Trung Quốc liên tục đưa xuồng quần thảo cắt dây vận chuyển của tàu HQ 604, dùng loa yêu cầu tàu HQ 604 phải nhổ neo gấp bằng tiếng Việt.
"Trung tá Trần Đức Thông, Lữ đoàn phó Lữ đoàn 146, vùng 4 Hải quân đã động viên anh em. Thiếu úy Trần Văn Phương cũng động viên, nói rằng vợ anh sắp sinh nhưng vẫn sát cánh cùng anh em nên không phải lo", anh Phan Văn Đức nhớ lại.
Đến 21h cùng ngày, tàu HQ 604 khẩn trương thả xuồng nhôm để đưa người và vật liệu xuống bám giữ đảo Gạc Ma và quyết làm nhà trên đó.
Lúc 3h sáng ngày 14/3/1988, các chiến sĩ đã cắm được cờ Tổ quốc lên bãi đá Gạc Ma.
Hằng ngày, anh Đức đều cầu nguyện cho những đồng đội đã hy sinh
Anh Đức kể, đến 4h sáng, khi mặt trời lên anh Đức đã cùng khoảng 20 - 30 chiến sĩ bơi vô đảo nhưng chỉ mang theo 2 khẩu súng AK 47. Hai khẩu súng này giấu rất kỹ, không để phía Trung Quốc phát hiện vì mục đích của phe ta là vừa phòng vệ nhưng vẫn giữ hòa khí.
"Trong đêm ở trên đảo, anh em tụi tôi đã xác định đụng độ với Trung Quốc là không còn đường về vì tàu họ quá hiện đại. Nhưng tụi tôi chấp nhận, vì nghĩ núi rừng còn chạy được chứ trên trời dưới biển thì làm sao tránh được", anh Đức nói.
Chiến sự
Không khí lúc đó hết sức căng thẳng.
"Phía bên ngoài, Trung Quốc bao vây quá đông, lúc đó chúng tôi chỉ mặc quần đùi, áo may ô. Thiếu úy Trần Văn Phương, Phó chỉ huy trưởng đảo Gạc Ma, cắm cờ Tổ quốc giữ đảo rồi bất ngờ bị phía Trung Quốc bắn chết. Ngay lúc ấy anh Nguyễn Văn Lanh liền nhảy lên gạt súng, xô ngã tên bắn anh Phương nhưng chính anh đã bị tên khác đâm lê vào sau lưng. Lúc đó chúng tôi chỉ dùng tay không đánh nhau với địch vì ai cũng nghĩ mất cờ là mất đảo" - anh Đức thuật lại.
"Lúc ấy, tôi hỏi anh em là 2 cây súng AK đâu rồi, thì được biết là mọi người đã dụi xuống biển trước đó để tránh bị hiểu lầm. Lúc đó tôi nghĩ mình chỉ cần 1 cây súng thôi thì ít nhất cũng bắn được trên chục mạng vì lính Trung Quốc đứng rất đông", anh Đức sục sôi.
Khoảnh khắc ấy không bao giờ phai mờ trong tâm trí của anh Đức. "Trước thái độ cương quyết giữ đảo của phe ta trên bãi đá Gạc Ma, phía Trung Quốc bất ngờ bắn một loạt đạn dày đặc. Tôi nhớ đạn dày đến nỗi lúc đó chỉ có đạn tránh người thôi chứ người không thể tránh đạn. Tôi bị trúng đạn ở vai trái ngã xuống nước, khi trồi lên tôi bơi về phía tàu HQ 604. Khi gần đến tàu, tôi thấy tàu Trung Quốc bắn liền 2 quả, 1 quả chớp đỏ nổ cabin tàu HQ 604, quả còn lại làm tàu lật luôn".
Sau trận hải chiến Gạc Ma 1988, nhân dân cả nước ủng hộ vật chất xây dựng nhiều đảo kiên cố tại quần đảo Trường Sa, trong ảnh là Nhà cấp 1 tại đảo Đá Nam - Ảnh tư liệu
Cùng đường, anh Đức ôm một cây gỗ bơi lại vào bãi đá thì được đồng đội dùng xuồng vớt lên và đưa về đảo Sinh Tồn.
Còn về phần anh Dũng, tàu HQ 604 bị bắn chìm khi anh ở trong bệ cẩu nằm giữa tàu. Ngoi lên mặt nước thì đạn địch bắn rất rát. Anh ngoi lên hụp xuống vài lần thì vớ được một thùng gỗ chứa lương khô và bơi ra xa.
Lần lượt anh với tìm được 2 cây gỗ, cùng 2 đồng đội khác ghép ván tạo thành bè rồi cả 3 người ngồi lên trên. Họ trôi dạt đến 18h cùng ngày thì bị tàu Trung Quốc bắt giữ, cùng với 6 đồng đội khác bị đưa về Quảng Đông. (còn tiếp)
"Ngày 14/3/1988, khi các tàu vận tải cùng với bộ bội của ta đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đảo Cô Lin, Gạc Ma và Len Đao, thì các tàu chiến của đối phương lao đến ngang ngược và bất chấp luật pháp quốc tế, họ đã dùng pháo lớn bắn vào các tàu HQ 604 ở đảo Gạc Ma, HQ 605 ở đảo Len Đao và HQ 505 ở đảo Cô Lin; cho quân đổ bộ lên đảo Gạc Ma nhổ cờ Tổ quốc, nổ súng vào bộ đội gây cho chúng ta nhiều tổn thất, 3 cán bộ hy sinh, 11 cán bộ, chiến sĩ bị thương, 70 người mất tích... (sau đó Trung Quốc trao trả lại 9 người đã bắt giữ).
Bị tổn thất và hy sinh nhưng bộ đội ta với tinh thần kiên cường, kiên quyết đấu tranh bảo vệ giữ vững chủ quyền đảo Cô Lin và Len Đao, tiếp tục triển khai đóng giữ bảo vệ thắng lợi Đá Nam và Đá Thị ở phía bắc quần đảo (15-16/3/1988). Nhân dân cả nước đã tổ chức hàng trăm buổi mít tinh phản đối hành động xâm chiếm trái phép của nước ngoài, đồng thời quyên góp vật chất trị giá hàng trăm triệu đồng ủng hộ chi viện Trường Sa... Trải qua hơn 5 tháng, Quân chủng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ CQ88, đóng giữ và bảo vệ thắng lợi 11 đảo mới với 32 điểm đóng quân". (Trích Lịch sử Vùng 3 hải quân)
Theo xahoi
Đến Gạc Ma, những ngày tháng 3/1988 Từ Gạc Ma chiếc tàu chiến Trung Quốc rồ máy tiến về phía Cô Lin, nơi chiếc tàu chúng tôi đang chuẩn bị cập mạn. Tôi nhìn thấy rất rõ, chiếc tàu chồm lên, sóng trước mũi tàu trắng như một vành khăn tang. Nòng pháo trên tàu rê rê hướng về tàu chúng tôi sẵn sàng nhả đạn... Đảo Len Đao tháng...