2 phụ nữ Việt trở về từ chiến trận Syria
Mặc dù đã được đưa về tới Việt Nam, song đến bây giờ nghĩ lại những ngày tháng phải sống trong nỗi kinh hoàng ở Syria, chị Dương Thị Lan (huyện Nga Sơn) và Lê Thị Thảo (huyện Hà Trung, Thanh Hóa) vẫn chưa hết bàng hoàng khi từng chứng kiến cảnh tan hoang trong khói bụi, người chế.t la liệt, tiếng sún.g vang trời…
Về tới nhà chị Lan vui lắm. Ở trong nhà rồi mà chị vẫn chưa thể tin nổi mình còn sống sót để trở về.
Từ hôm chị Lan trở về, gia đình nhộn nhịp hẳn lên. Mọi người cứ nghĩ rằng, sau cuộc chiến kinh hoàng ở Syria, người thân sẽ không bao giờ được gặp chị Lan nữa.
Vợ chồng chị Lan-anh Sơn.
Gặp chúng tôi, chị Lan kể lại: Năm 2007, bằng đường dây môi giới ngoài Hà Nội gia đình đã để cho chị đi sang Syria làm giúp việc. Vừa sang tới nơi, trong một thời gian ngắn chị đã phải chuyển tới ba nơi làm việc vì lý do họ không trả lương.
Lần cuối cùng chị đặt chân đến là thành phố Allepo. Ở đây chị làm được gần 1 năm thì xảy ra chiến tranh.
“Ở trong nhà đã nghe sún.g đạn bắ.n rầm rầm. Tôi đứng từ trên tầng nhìn xuống đường phố thấy những toà nhà cao tầng đổ sụp xuống, xe cộ bốc cháy, xá.c ngườ.i nằm la liệt… Kinh hãi hơn là những đợt bom, sún.g dội xuống giật đùng đoàng. Lúc này tôi nghĩ rằng mình không thể có cơ hội sống sót trở về”, chị Lan kể lại.
Rót chén nước chè uống như để trấn an tinh thần, chị kể tiếp: Chiến tranh, sún.g đạn cứ triền miên. Sau 1 buổi sáng thức dậy, chị đã thấy mình bị nhốt trong nhà. Chạy xuống xem có ai không thì phát hiện họ (chủ nhà) đã bỏ chị ở lại và đi sơ tán hết từ lúc nào.
“Ba ngày tôi không có thức ăn. Trong lúc đói rã người thì tôi nhìn xuống thấy một người đàn ông, tôi gọi cứu nhưng họ không nghe vì tiếng bom đạn nổ quá lớn. Tôi phải lấy miếng kính vỡ ném xuống, lát sau thấy thêm vài người cảnh sát đến phá cửa đưa tôi đến trại tị nạn ở”, chị Lan cho biết.
Quãng đường đến trại tị nạn từ thành phố Allepo đến Đại sứ quán Philippines ở thủ đô Damascus khoảng hơn 100 cây số, nhưng xe của cảnh sát phải đi mất 10 giờ đồng vì gặp bom đạn. Trên đường đi, chị Lan nhìn thấy rất nhiều người chế.t, nằm la liệt.
“Ở đây, Đại sứ quán Philippines đã hỗ trợ chỗ ăn, ở cho tôi và liên lạc với Đại sứ quán Việt Nam tại Thổ Nhĩ Kỳ. Cuối tháng 3/2012 tôi mới được trở về Việt Nam”, chị Lan cho biết.
Anh Lê Xuân Sơn (chồng chị Lan) nói như sám hối: Tôi hối hận lắm rồi. Vì tin lời bà cô ngoài Hà Nội suýt nữa đẩy vợ mình vào chỗ chế.t.
Chị Lan đi nước ngoài với hi vọng có thêm ít vốn về mở rộng quán sửa xe.
“Cả nhà trông chờ vào 2 sào ruộng, năm được năm mất, quán sửa xe máy tuềnh toàng thu nhập chẳng là bao. Cứ tưởng để vợ đi mấy năm kiếm ít vốn đầu tư, mở rộng quán, ai ngờ từ ngày đi đến khi về gửi được gần 30 triệu, số tiề.n vay đi nước ngoài hiện gia đình vẫn đang trả lãi hàng tháng”, anh Sơn buồn rầu nói.
Video đang HOT
Cùng chung hoàn cảnh như chị Lan, chị Lê Thị Thảo (thôn Chí Cường, xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, Thanh Hóa) một trong những người có được cơ hội sống để trở về nước vẫn còn chưa hết bàng hoàng.
Chị kể: Chị sang Syria để làm giúp việc từ tháng 3/2008 qua người môi giới tại Hà Nội. Theo đó, chị làm việc quần quật cả ngày nhưng họ không trả lương, do ngôn ngữ bất đồng, đường đi lại không biết, lại là lao động bất hợp pháp nên chỉ thui thủi trong nhà.
Sau hơn 2 năm, lần mò mãi chị mới quay lại được công ty môi giới, nơi lần đầu tiên chị đến.
Tại đây, chị Thảo được đưa lên thủ đô Damascus và thả ở đó với 2 bàn tay trắng.
Quang cảnh tan hoang, ngoài đường chủ yếu là quân đội, công an. Sau đó một cảnh sát tuần tra trên đường phố lại đưa chị vào trại tạm giam, ở đó chủ yếu là người Philippines, Indonesia, Châu Phi, duy nhất có chị là người Việt Nam.
“Sau hơn 5 tháng sống trong tuyệ.t vọn.g, ngày 25/4/2013, tôi được đưa về Đại sứ quán Philippines, nhờ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam cùng với Tổ chức di dân quốc tế, tôi như từ cõi chế.t trở về”, chị Thảo nhớ lại.
Lê Anh
Theo_VietNamNet
Sửng sốt Ly Cung của triều đại nhà Hồ
Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, hồ Sao Sỉa gần như trở thành một bãi đất bằng phẳng, cỏ dại mọc ngập mặt đất, trong khi tứ phía của hồ được bao bọc bởi rừng cây xanh thẳm.
Ở vùng đất Đại Lại xưa (nay thuộc xã Hà Đông, huyện Hà Trung, Thanh Hóa) là nơi khởi nghiệp của Vương triều Hồ, chính quyền địa phương và các nhà nghiên cứu vừa phát hiện thấy khu vực mà theo truyền thuyết là địa điểm Hồ Quý Ly sử dụng làm nơi đào tạo, rèn giũa binh sĩ, nằm ẩn trên khu đất bằng phẳng trong giữa khu rừng thông tĩnh mịch.
Ngoài ra, trong quá trình canh tác, người dân, đặc biệt là ông Chủ tịch UBND xã Hà Đông Phạm Văn Vĩnh còn tìm thấy khu vườn thượng uyển nằm bên tả cung Bảo Thanh đang bị vùi sâu dưới lòng đất.
Xạ nước Kim Phát luôn trong xanh và ăm ắp nước quanh năm.
Huyền bí hồ Sao Sỉa
Chỉ có số ít người dân ở Hà Đông hay đi chăn bò, dê mới biết rõ về những chiếc hồ lớn nằm trên đỉnh núi Ca Đề thuộc dãy Đại Lại, được bao trùm bởi ngút ngàn rừng thông nhiều năm tuổ.i. Đến thời điểm này, chính quyền địa phương tìm thấy 5 chiếc hồ xung quanh khu vực, trong đó có hồ nước đặt tên là Ao Bèo hay còn có tên gọi khác là hồ Sao Sỉa.
Ông Hoàng Hoa Hùng (82 tuổ.i, trú thôn Kim Phát, xã Hà Đông) kể: "Năm 1511, vua Lê Tương Dực đi vi hành qua hương Đại Lại, thăm Ly Cung, bất ngờ nhìn thấy núi Kim Âu đẹp quá, trông như một cái ngai.
Vua Lê Tương Dực sau khi đi bái yết sơn lăng về, nhân lúc có hứng xa giá vừa sang qua sông, bèn sai quân tùy tùng chỉnh đốn tướng sĩ ngược núi, thăm chùa Kim Âu, thăm hồ Sao Sỉa. Vua nhìn quanh bốn mặt non sông khói mây bảng lảng, mù tỏa mênh mông, tai văng vẳng nghe tiếng hạc kêu, vượn hót, mắt dõi trông yến múa, oanh bay. Tại đây chỉ có mây trôi, hàng cổ thụ um tùm, đèn hoa mấy đốm, soi sáng tòa sen".
Câu chuyện về hồ Sao Sỉa khiến người viết bài này rất tò mò khi mà chính quyền địa phương đưa ra chi tiết, khi vua Hồ Quý Ly về đây lập cung điện, ông từng đưa quân sĩ lên khu vực hồ Sao Sỉa luyện tập võ nghệ, nâng cao thể lực, thích nghi với môi trường khắc nghiệt.
Dẫn chúng tôi ngược núi là các chiến sĩ Công an xã Hà Đông, con đường lên non mỏng mảnh, len lỏi qua khe hở của bạt ngàn rừng thông đang kỳ thu hoạch. Mất hơn một giờ đi bộ, cả đoàn có mặt ở đỉnh Kim Âu, khu hồ hiện ra trước vậy mà tôi vẫn cứ nghĩ dường như đó chỉ là điều huyễn hoặc. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, hồ Sao Sỉa gần như trở thành một bãi đất bằng phẳng, cỏ dại mọc ngập mặt đất, trong khi tứ phía của hồ được bao bọc bởi rừng cây xanh thẳm.
Phải chăng nơi đây, vua nhà Hồ từng dùng làm nơi huấn luyện quân sự? Mang sự tò mò này về hỏi ông Phạm Văn Vĩnh - Chủ tịch UBND xã Hà Đông, ông cho biết: Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nghe các bậc cao niên kể rằng, trên dãy Đại Lại có cồm (các gò đất nhỏ), vũng do các mảnh thiên thạch rơi xuống tạo thành rất nhiều cái ao lớn.
Theo truyền thuyết, khu vực hồ Sao Sỉa là nơi mà Hồ Quý Ly thao luyện đội quân tinh nhuệ chuyên hoạt động ở những nơi hiểm trở. Cạnh khu vực thao trường, vua Hồ cho đào một giếng khơi (hiện vẫn còn dấu tích miệng giếng) để quân sĩ lấy nước sạch sinh hoạt. Thế nhưng, đến ngày nay Ao Bèo gần như bị vùi vào quên lãng.
Một khối đá chân tảng nằm lăn lóc ở chính điện Ly Cung.
Phát hiện vườn thượng uyển!
Khi giặc Minh xâm lược nước ta, Ly Cung nhà Hồ bị phá phách, đến giờ chỉ còn tồn tại như một phế tích. Song khi giặc rút đi thì ở cung Bảo Thanh vẫn còn tồn tại hệ thống nền móng vững chắc và ngôi chùa Phong Công, hay còn gọi là chùa Tranh.
Ông Phạm Văn Vĩnh kể: "Từ đời này sang đời khác, người dân Đại Lại vẫn lưu truyền trong dân gian rằng ngôi chùa này còn hiện diện đến vài trăm năm sau mới bị phá dỡ. Riêng phần nền móng của cung điện, các công trình phụ cận của nhà Hồ thì vẫn còn khá nguyên vẹn.
Được biết, hầu như giặc giã chỉ phá phách phần trên, còn kết cấu phần dưới bằng đá nhỏ thì không bị tác động đến. Nhưng vào khoảng giữa thế kỷ trước, nhân dân có phong trào bài phong nên Ly Cung tiếp tục trở thành nạ.n nhâ.n của việc hủy hoại di sản".
Năm 1942, GS Hoàng Xuân Hãn, nhân chuyến đi qua vùng Lèn (Hà Trung) đã phát hiện ra phế tích kiến trúc cũ đổ nát. Nhưng phải đến năm 1979, sau nhiều đợt thám sát, giới khảo học mới tìm ra và khẳng định đây chính là Ly Cung nhà Hồ. Tuy là phế tích, song về phần nền chùa, các khu tam quan trong và ngoài do sự kiêng kỵ cho nên ít bị động chạm đến.
Từ đó, trong các năm 1979 - 1985, các nhà khảo cổ tiến hành khai quật làm bốn đợt ở Ly Cung trên diện tích rộng 600m2. Trong đó, ở kiến trúc hoàng cung đã tìm thấy hàng đá xanh bó móng được gia công thành những khối vuông vức, đầu tiếp giáp có lỗ đổ cá bằng chì, liên kết với nhau thành một khối. Bên ngoài hàng đá xanh bó nền là hàng gạch hoa bó vỉa bao quanh, điểm ngoài kế tiếp có hàng gạch bìa xếp đứng. Trên nền chính điện còn sót lại những tảng đá như một minh chứng về sự đồ sộ của Ly Cung.
Phần sân điện có bố cục gần vuông, toàn bộ mặt sân lát bằng loại đá phiến với kích thước khá lớn, có điểm gạch hoa bao xung quanh. Đặc biệt giữa nền điện gần về sân điện đã phát hiện được bệ đá hoa sen cực lớn. Bên trong và bên ngoài nền sân điện còn tìm được những hiện vật nghệ thuật đá chạm hoa cúc dây, cánh sen, tượng chó, vịt...
Những kết quả nghiên cứu khảo cổ học có vai trò đặc biệt quan trọng để đán.h giá về giá trị của một di tích. Mới đây, ông Hồ Quang Sơn - Chủ tịch Hội Di sản văn hóa Lam Kinh, kiêm Chủ tịch Hội Cổ vật Thanh Hóa - bật mí cho tôi biết những thông tin có ý nghĩa đặc biệt của di tích này.
Theo ông Hồ Quang Sơn, ngay trong khu vực phụ cận, thuộc mảnh đất canh tác cây lâu năm của gia đình ông Vũ Văn Thành, có dấu hiệu cho thấy nơi đây chính là khu vườn thượng uyển của nhà Hồ.
Giếng Vua được kè bằng đá ở phần đáy, nguồn nước giếng quanh năm trong xanh.
Ông Phạm Văn Vinh - Chủ tịch UBND xã Hà Đông - mô tả: "Khu vườn do gia đình ông Thành quản lý khá vuông vức, thửa đất bằng phẳng, xung quanh còn tồn tại những dấu tích tường đá cũ. Ông Vĩnh vẽ lại sơ đồ khá chi tiết về khu vườn thượng uyển để phóng viên hình dung, qua sơ đồ cho thấy, khuôn viên, dấu tích đá hiện lên khá quy mô, được quy hoạch và bài trí hợp lý thể hiện sự uy nghi nơi cung đình. Nhưng bây giờ chỉ còn lại những khối đá nhỏ và một số khối đá lớn nằm sâu dưới lòng đất".
Chúng tôi tìm gặp ông Vũ Văn Thành - chủ nhân của khu đất thầu có chứa vườn thượng uyển đang ẩn sâu dưới nền đất khoảng 1m. Ông Thành kể: "Gia đình tôi thầu khu đất được cho là có chứa vườn thượng uyển trong lòng đất từ năm 1989. Quá trình đào hố, trồng cây đã nhiều lần tôi thúc cuốc, thuổng xuống đất thì bị vướng đá, gạch gây quằn lưỡi dụng cụ. Bực quá, tôi mới tò mò khơi rộng hố đất thì mới biết đó là những khối đá, gạch kè thành nhiều ô, thẳng hàng, các dấu tích ô kè có hình quả trám.
Sau đó, anh Vĩnh - Chủ tịch UBND xã - đến xem xét, chính anh ấy là người phát hiện và nhận định đây là khu vườn thượng uyển của nhà Hồ xây dựng lên. Mong muốn của gia đình, các cơ quan chức năng sớm về nghiên cứu, tiến hành thực hiện khai quật khảo cổ học để xác định nếu đúng đó là di tích lịch sử Ly Cung thì nhà tôi sẽ trả lại để các cấp ngành có phương án trùng tu, tôn tạo".
Tìm thấy giếng vua và xạ nước
Ngoài những công trình nêu trên, cũng trên địa bàn xã Hà Đông (huyện Hà Trung) các nhà nghiên cứu còn phát hiện một số công trình cổ khác vốn được xây dựng từ thời nhà Hồ vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Ông Hồ Quang Sơn - Chủ tịch Liên chi hội di sản văn hóa Lam Kinh - chính là người phát hiện ra giếng vua hiện còn khá nguyên vẹn. Giếng nằm trên khu đất do địa phương quản lý nhưng lại chen giữa hai hộ dân Hoàng Văn Hạnh và Đặng Văn Đang thuộc thôn Đại Lại.
Anh Nguyễn Văn Thái - cán bộ văn hóa xã Hà Đông - như hiểu được sự hoài nghi và tò mò của tôi dẫn đến tận nơi mục sở thị giếng vua. Giếng xây dựng hình vuông, xung quanh lòng giếng được kè bằng đá tấm thành từng lớp, lớp dưới so le với lớp trên. Phần từ mặt nước trở lên có thể được xây bằng gạch, trát vữa.
Anh Hoàng Văn Hạnh (chủ hộ sống cạnh giếng) cho biết: Trước khi sinh ra, anh không rõ giếng vua tồn tại ra sao. Song, từ ngày lớn lên, cư trú trên mảnh đất này chưa bao giờ anh thấy nước bị đục. Tuy giếng nằm không sâu vậy nhưng nguồn nước ngầm lúc nào cũng đầy ắp, trong xanh, mát lành.
Không chỉ phát hiện giếng vua, chính quyền xã Hà Đông và một số nhà nghiên cứu lịch sử ở địa phương còn tìm thấy hai xạ nước nằm bên tả, hữu cung Bảo Thanh. Theo đó, xạ nước là điểm cuối của mạch nguồn được chắt lọc từ trong lòng dãy núi Đại Lại để các bậc quan lại nhà Hồ sử dụng trong sinh hoạt thuở xưa. Các bậc quan lại triều Hồ lấy nước từ chân núi chảy qua máng dài khoảng 100m. Máng được xây dựng bằng gạch, phía trên lợp mái bằng ngói úp để dẫn nước về xạ. Phần xạ nước xây theo hình bán nguyệt, trên thành lắp ghép bằng các khối đá xanh nhỏ chồng lên nhau nằm ở phía sau hậu cung.
Bên cạnh xạ còn tồn tại dấu tích một nhà bốn mái với một giường đá lớn để người đến tắm nghỉ ngơi khi mưa nắng. Bên cạnh xạ là hai giếng ngọc cách cung Bảo Thanh khoảng 100m về phía tây bắc.
Từ thôn Đại Lại, chúng tôi ngược sang thôn Kim Phát tiếp tục khám phá xạ nước còn khá nguyên vẹn đang được hằng trăm hộ dân thôn này sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày. Nguồn nước xạ Kim Phát cũng trong xanh chẳng kém gì nước ở giếng vua.
Trao đổi với một phụ nữ đang gội đầu ở xạ, chị cho biết: "Cả thôn Kim Phát từ nhiều đời nay đều sống nhờ nguồn nước lấy từ xạ này. Song, có một điểm đáng chú ý đó là người dân chỉ lấy nước hoặc tắm, rửa lúc trời còn sáng. Khi màn đêm buông xuống không ai được phép ra xạ, bởi theo quan niệm dân gian thì đêm tối phải dành xạ cho các tiên nữ xuống trần rong chơi tắm".
Mặc dù cung Bảo Thanh xưa nay đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia, tuy nhiên nó lại đang tồn tại như một phế tích. Tại khu đất được xác định là chính điện, giờ chỉ còn sót lại một khối lượng ít ỏi phần nền móng được xây dựng bằng đá. Song, trong quần thể di tích vẫn còn nhiều di tích khác đặc biệt có giá trị về mặt lịch sử cũng như giá trị thực tiễn phục vụ cuộc sống con người. Hơn thế, đây còn là di tích phụ cận có ý nghĩa đặc biệt đối với di sản văn hóa thế giới thành nhà Hồ.
Thế nhưng, kiến trúc Ly Cung đến nay vẫn đang bị bỏ mặc cho mưa nắng và thời gian tàn phá. Từ những phát hiện của chính quyền, nhà nghiên cứu và người dân xã Hà Đông, các cấp, ngành từ tỉnh đến trung ương cần sớm quan tâm đầu tư để trùng tu tôn tạo đối với Ly Cung, một minh chứng có dấu ấn đặc biệt quan trọng đối với vương triều Hồ. Cần sớm khai quật, khu đất thuộc quyền quản lý của gia đình ông Thành để xác định nơi đây có đúng là khu vườn thượng uyển không và có biện pháp bảo vệ.
Theo Anh Tuấn
Lao động
30/6 - Ngày lịch sử của thị trường vàng Hôm nay, ngày 30-6-2013, một ngày rất có thể sẽ đi vào lịch sử của thị trường vàng Việt Nam bởi dấu mốc quan trọng của nó và những tác động quan trọng của nó đối với thị trường cũng như đối với giá trị của kim loại quý này với nền kinh tế. Theo đúng các quy định của Chính phủ, ngày...