15 năm thoát khỏi sự trì trệ, hợp tác xã tăng tốc phát triển
Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phát triển kinh tế tập thể, bức tranh kinh tế hợp tác, hợp tác xã đã có những sự chuyển biến mạnh mẽ cả về lượng và chất.
Phóng viên NTNN đã có cuộc trao đổi với TS Lê Đức Thịnh – Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và PTNT Bộ NNPTNT – (ảnh) xung quanh vấn đề này.
Trong hành trình 15 năm phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã (HTX), theo ông, đâu là những điểm nhấn ấn tượng nhất?
- Theo tôi, điểm nhấn ấn tượng nhất của kinh tế hợp tác, HTX là đã tự vươn mình, thoát ra khỏi những ám ảnh về sự trì trệ, yếu kém vốn tồn tại rất dài trong thời kỳ bao cấp. Đã có một thời, nghĩ đến HTX là người ta mặc cảm về một sự yếu kém tồn tại kéo dài mà không nhìn rõ bản chất ưu việt của mô hình này, nhất là trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp của Việt Nam vẫn dựa vào những nông hộ nhỏ lẻ.
Nhưng trong 15 năm qua, cùng với sự chuyển biến về nhận thức của chính quyền và người dân, HTX đã có sự phát triển mang tính bước ngoặt, nhiều mô hình mới xuất hiện, làm ăn hiệu quả, đóng góp cho quá trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp của các địa phương, thậm chí có những mô hình rất mới.
Có thể thấy, sự lớn mạnh của HTX qua những con số tăng trưởng ấn tượng. Tính đến hết ngày 30/6/2019, cả nước đã có 14.452 HTX nông nghiệp, trong đó có tới 55% hoạt động hiệu quả. Các địa phương cũng đã xử lý dứt điểm những HTX hoạt động yếu kém bằng cách giải thể. Theo đó, giải thể được 3.600 đơn vị, chỉ còn khoảng 600 HTX yếu kém đang đợi giải thể hoặc cải tổ trong thời gian tới.
Sản xuất sạch luôn được các thành viên trong Liên hiệp HTX Cần Đước (Long An) ưu tiên hàng đầu. Ảnh: BLA
Điều đáng ghi nhận là, tốc độ phát triển HTX tăng mạnh qua từng năm, nếu như từ năm 2002 trở về trước, mỗi năm cả nước chỉ thành lập mới 200 – 300 HTX thì con số này từ năm 2017 trở lại đây là 2.000 HTX/năm. Nếu như năm 2003, doanh thu bình quân của HTX chỉ đạt 461 triệu đồng/năm thì con số này năm 2018 là 1,61 tỷ đồng.
Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, các HTX còn giúp nhân dân phát triển sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu bằng cách bố trí lại mùa vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Ví dụ, HTX Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Đông II (Tháp Mười, Đồng Tháp) thực hiện mô hình sản xuất lúa thông minh. Ngay cả ở những vùng miền, địa phương trước đây được xem là khó khăn trong sản xuất thì nay cũng có những mô hình HTX hoạt động hiệu quả.
Video đang HOT
Nhưng dường như những điểm nghẽn cố hữu kìm hãm sự phát triển của HTX như đất, vốn, hạ tầng vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Quan điểm của ông về vấn đề này như thế nào?
- Đúng là hiện nay quá trình phát triển của HTX đang đối mặt với những thách thức không nhỏ như diện tích sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa hấp dẫn nhiều doanh nghiệp tham gia đầu tư, nhiều địa phương chưa hiểu rõ sự cần thiết của HTX trong khi năng lực quản trị của nhiều HTX còn giới hạn.
Đơn cử như chính sách hỗ trợ tín dụng đối với HTX nông nghiệp, trong khi nhu cầu vô cùng lớn nhưng rất ít HTX được tiếp cận các khoản vay tín dụng nói chung và vay ưu đãi nói riêng. Nguyên nhân, do HTX không có tài sản thế chấp, quản lý thiếu minh bạch, phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi trong khi ngân hàng ngại rủi ro.
Ngoài ra, rất ít HTX được tiếp cận chính sách hỗ trợ hạ tầng, hỗ trợ đất đai, trong khi chính sách về đào tạo, tập huấn cho cán bộ HTX đã thực hiện nhưng dàn trải và hình thức, có nơi nặng về giải ngân.
Những hạn chế này được chỉ ra từ lâu chưa được giải quyết một cách dứt điểm để tạo động lực, hành lang cho HTX phát triển. Theo tôi, cơ chế, chính sách của Nhà nước cần phải tập trung, sát với nhu cầu của HTX và phát huy được 3 nguồn lực hỗ trợ HTX là: Vốn góp của thành viên, tín dụng ngân hàng và nguồn lực xã hội.
Trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập sâu rộng, theo ông, một mô hình HTX lý tưởng trong thời gian tới sẽ đi theo hướng nào?
- Sự phát triển của HTX cũng giống như một vòng đời, có lúc thăng lúc trầm, thịnh và suy. Theo tôi, các HTX ở Việt Nam mới đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển, nhưng từ những mô hình đã thành công tôi thấy, xây dựng được liên kết theo chuỗi là yếu tố sống còn giúp các HTX phát triển, trong đó doanh nghiệp là hạt nhân của chuỗi, HTX có trách nhiệm tập hợp nông dân sản xuất theo một quy trình, đạt độ đồng đều về năng suất, chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, các ngành chức năng, địa phương cần nhanh chóng tháo gỡ các khó khăn của HTX trong tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi; hỗ trợ thủ tục xác nhận, chứng nhận sở hữu đất đai của HTX và thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp để HTX xây dựng hạ tầng; miễn thuế giá trị gia tăng đối với sản phẩm trao đổi giữa các thành viên HTX với nhau; tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý HTX.
15 năm phát triển, HTX đã chứng minh được vai trò của mình trong phát triển kinh tế hàng hóa, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đã đến lúc phải tạo hành lang pháp lý, cơ chế chính sách để HTX có không gian phát triển.
Xin cảm ơn ông!
Theo Danviet
10 năm nông thôn mới, thu nhập của nông hộ đạt 130 triệu đồng
Sau 10 năm thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành nông nghiệp, cuộc sống của người dân nông thôn đã có những thay đổi đáng kể.
Theo Bộ NNPTNT, quá trình triển khai chủ trương, chính sách trong xây dựng nông thôn mới (XDNTM), đặc biệt là phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, cụ thể là:
Nông nghiệp có mức tăng trưởng ổn định, giai đoạn 2011-2015 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của toàn ngành nông, lâm, thủy sản đạt 3,1%/năm, bình quân giai đoạn 2011-2018 đạt 2,95%/năm, tỷ trọng GDP ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP nền kinh tế giảm từ 18,38% năm 2011 xuống còn 14,57% năm 2018.
Nông nghiệp chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa cạnh tranh quốc tế, năng suất, chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Cơ cấu sản xuất từng ngành được điều chỉnh, chuyển đổi theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước gắn với nhu cầu thị trường.
Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản có mức tăng trưởng ấn tượng nhờ mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, đưa Việt Nam đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 13 thế giới về xuất khẩu nông sản, với tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản 10 năm (2008-2017) đạt 261,28 tỷ USD, tăng bình quân 9,24%/năm, năm 2018 kim ngạch xuất khẩu đạt 40,02 tỷ USD, thặng dư thương mại đạt 8,7 tỷ USD.
Toàn cảnh Hội thảo chuyên đề Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ đạt được những kết quả tích cực, KHCN đã đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong sản xuất giống cây trồng và vật nuôi với giá trị gia tăng đạt đến 38%. Các mô hình ứng dụng công nghệ cao trong trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản đã làm tăng hiệu quả kinh tế từ 10-30%; trên 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô và 60% diện tích mía đã sử dụng giống mới...
Hình thức tổ chức sản xuất được đổi mới, tính đến năm 2018, Việt Nam đã có 39 liên hiệp HTX nông nghiệp, 13.400 HTX nông nghiệp và 35.500 trang trại, số hộ làm nông lâm thủy sản chiếm dưới 53,7%.
Tính đến tháng 5/2019, Việt Nam có khoảng 11.200 doanh nghiệp nông nghiệp, nếu tính cả doanh nghiệp nông nghiệp và doanh nghiệp lĩnh vực khác có đầu tư vào nông nghiệp, cả nước có khoảng 49.600 doanh nghiệp. Đã hình thành 27.000 mô hình sản xuất liên kết chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao, hình thành vùng sản xuất tập trung theo hướng hàng hóa quy mô lớn.
Thu nhập, đời sống của người dân nông thôn không ngừng được cải thiện, giai đoạn 2008-2017, thu nhập bình quân đầu người/năm ở nông thôn đã tăng 3,5 lần, từ 9,15 triệu đồng lên 32 triệu đồng. Giai đoạn 2012-2017, thu nhập bình quân hộ gia đình ở nông thôn tăng mạnh, từ mức 75,8 triệu đồng lên gần 130 triệu đồng.
Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn thu hẹp từ 2,1 lần năm 2008 còn 1,8 lần năm 2017. Tỷ lệ nghèo giảm nhanh, còn 5,35% vào năm 2018.
Thu nhập của người nông dân tăng nhanh sau 10 năm xây dựng nông thôn mới. Trong ảnh: Thu hoạch lúa hữu cơ tại xã Đồng Phú (Chương Mỹ, Hà Nội).
Tuy vậy, theo Thứ trưởng Bộ NNPTNT Trần Thanh Nam, quá trình tăng trưởng nông nghiệp chưa ổn định và đồng đều giữa các địa phương, sản xuất nông nghiệp còn nhiều rủi ro, chưa bền vững; khả năng cạnh tranh của nhiều nông sản chưa cao, công nghiệp chế biến phát triển chậm, chất lượng và thương hiệu nông sản chưa được định hình tương xứng với một quốc gia xuất khẩu nông sản hàng đầu;
Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chưa tạo sức mạnh lan tỏa và thúc đẩy nhanh quá trình thay đổi tập quán canh tác nhỏ lẻ, thiếu liên kết, không chuyên nghiệp. Thị trường KHCN chưa chưa tạo sự gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh nông sản.
Sản xuất vẫn còn nhỏ lẻ manh mún (99,89% các đơn vị kinh tế nông nghiệp là hộ nông dân, 0,04% doanh nghiệp, 0,07% HTX; 36% hộ diện tích
hóa, ứng dụng công nghệ cao giảm chi phí trung gian, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Số lượng doanh nghiệp nông nghiệp chỉ chiếm 8% tổng số doanh nghiệp của nền kinh tế, quy mô nhỏ, năng lực tài chính thấp (trên 90% là doanh nghiệp nhỏ, thậm chí siêu nhỏ), hiệu quả hoạt động chưa cao.
Lao động nông nghiệp vẫn chiếm gần 40% trong tổng số lao động xã hội, chủ yếu làm thủ công nên năng suất lao động thấp (chỉ bằng 38% năng suất lao động bình quân cả nước). Thu nhập và đời sống của người dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, chậm được cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo còn cao.
Chính vì vậy, tại hội thảo chuyên đề Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong khuôn khổ Hội thảo Lý luận và thực tiễn trong xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam, tổ chức tại Nam Định ngày 16 - 17/7/2019, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho rằng, chúng ta phải tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị các nhóm sản phẩm chủ lực; phối hợp với các doanh nghiệp lớn đủ khả năng dẫn dắt các chuỗi giá trị sản phẩm chủ lực quốc gia.
"Các địa phương căn cứ lợi thế và nhu cầu thị trường lựa chọn nhóm sản phẩm để quy hoạch vùng chuyên canh; xác định thị trường chính cho các mặt hàng nông sản; Nhà nước làm cầu nối để kết nối doanh nghiệp với nông dân để tổ chức sản xuất theo nhu cầu thị trường" - ông Nam nói.
Trong khi đó, TS.Nguyễn Đỗ Anh Tuấn - Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn, cần tập trung vào các đột phá về thể chế phát triển nông nghiệp, nông thôn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; đổi mới mô hình tổ chức, liên kết sản xuất, phát triển thị trường; nâng cao trình độ sản xuất, ứng dụng KHCN trong nông nghiệp, tăng cường khởi nghiệp sáng tạo trong nông thôn; cách thức thúc đẩy áp dụng thực hành nông nghiệp tốt, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, thích ứng với biến đổi khí hậu trong sản xuất, kinh doanh nông nghiệp.
Theo Danviet
Phát huy vai trò xung kích của Báo Nghệ An trên mặt trận tư tưởng Lãnh đạo Đảng ủy Khối Các cơ quan tỉnh đề nghị Báo Nghệ An - là tiếng nói của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà tiếp tục phát huy vai trò xung kích trên mặt trận chính trị, tư tưởng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sáng 16/7, Đảng ủy Báo Nghệ An tổ chức Hội...