10 nguyên nhân làm trễ kinh
Không có gì làm người phụ nữ sợ bằng việc trễ kinh, trừ phi người đó muốn có thai.
Có thai là việc đầu tiên chúng ta nghĩ đến khi trễ kinh. Nhưng có thai không phải là nguyên nhân duy nhất làm bạn trễ kinh. Có 10 nguyên nhân phổ biến làm bạn trễ kinh.
1. Căng thẳng (stress)
Stress có thể tác động đến nhiều chuyện trong cuộc sống, trong đó có sự trễ kinh. Thỉnh thoảng chúng ta bị căng thẳng đến mức cơ thể chúng ta giảm đi lượng hóc môn (GnRH), là hóc môn làm cho chúng ta không rụng trứng hay hành kinh. Đi khám bệnh hoặc tham vấn các chuyên gia tâm lý trị liệu có thể giúp bạn tìm ra những gì cần làm để giải tỏa căng thẳng, nhẹ nhõm và trở lại chu kỳ kinh bình thường. Thỉnh thoảng có khi mất vài tháng hay nhiều hơn mới có hiệu quả.
Căng thẳng có thể là nguyên nhân gây trễ kinh
2. Bệnh
Một cơn bệnh đột ngột, ngắn ngày hay thậm chí một cơn bệnh dài ngày cũng có thể làm kỳ kinh của bạn bị trễ. Thông thường việc trễ kinh này là tạm thời.
3. Thay đổi lịch làm việc, sinh hoạt
Thay đổi lịch làm việc, sinh hoạt có thể phá vỡ nhịp sinh học của cơ thể bạn. Điều này đặc biệt đúng nếu bạn chuyển cơ chế làm việc từ ngày sang đêm hay ngược lại. Nếu bạn thường xuyên thay đổi ca làm việc và thấy có vấn đề về chu kỳ kinh nguyệt, thì nên tính đến khả năng làm một ca không thay đổi hay chỉ đổi ca sau một thời gian lâu dài hơn.
4. Thay đổi các thuốc sử dụng
Có thể bạn sử dụng một loại thuốc mới và hậu quả là bạn bị trễ hay mất một kỳ kinh. Hãy báo với bác sĩ về tác dụng phụ này của thuốc. Sự trễ kinh rất thường xảy ra với một số phương pháp ngừa thai. Nếu bạn đổi thuốc, cần hỏi về những tác dụng phụ có thể tác động đến chu kỳ kinh nguyệt của bạn.
Video đang HOT
Tác dụng phụ của thuốc cũng là một trong những nguyên nhân gây trễ kinh
5. Tăng thể trọng quá mức
Sự tăng thể trọng quá nhiều có thể làm các hóc môn tác động đến chu kỳ kinh và thậm chí làm ngừng kinh. Hầu hết phụ nữ thấy sẽ trở lại chu kỳ bình thường sau khi giảm một số cân thể trọng, kể cả sau khi giảm vẫn còn tình trạng thể trọng quá mức bình thường.
6. Thể trọng dưới mức bình thường (thiếu cân)
Nếu bạn không đủ mỡ cho cơ thể bạn sẽ không có được các chu kỳ kinh đều đặn, thỉnh thoảng bạn còn bị mất kinh. Việc tăng cân đến mức bình thường sẽ giúp kỳ kinh của bạn trở lại. Đây là nguyên nhân thường gây ra trễ kinh nơi những phụ nữ tập thể dục quá mức hay nơi những vận động viên chuyên nghiệp.
7. Tính nhầm
Chu kỳ kinh của phụ nữ không phải ai cũng như nhau mà khác biệt tùy người. Chúng ta thường nói chu kỳ kinh trung bình là 28 ngày, nhưng không phải ai cũng như vậy. Thỉnh thoảng chu kỳ của chúng ta bị cho là trễ nhưng thực sự là do tính nhầm. Nếu bạn có chu kỳ kinh thất thường, nhưng biết ngày rụng trứng, thì sẽ thấy kỳ kinh của bạn xãy ra khoảng hai tuần sau khi trứng rụng.
8. Thời kỳ trước khi mãn kinh
Bạn cần làm gì sau đó?
Nếu bạn có thai, bạn nên đi thăm khám thai.
Nếu bạn thử thai và không thấy có thai, bạn nên đợi một tuần và thử lại. Nếu lần thử thứ hai vẫn không thấy có thai (âm tính) mà vẫn không thấy kinh, bạn cũng nên đi khám bệnh và bác sĩ có thể kê toa để giúp bạn có lại chu kỳ kinh nguyệt.
Thời kỳ trước khi mãn kinh là giai đoạn bạn đang chuyển từ thời kỳ có khả năng sinh nở sang thời kỳ hết khả năng sinh nở. Các kỳ kinh của bạn có thể ít hơn, hay nhiều hơn, thường hơn hay thưa hơn – nhưng phần lớn là không bình thường. Nếu bạn không mong muốn có thai, cần tiếp tục sử dụng các biện pháp tránh thai vì bạn vẫn dễ bị thụ thai ít nhất trong một thời gian.
9. Mãn kinh
Mãn kinh là lúc bạn không còn rụng trứng hay thấy kinh nữa. Mãn kinh có thể là một sự kiện sinh học tự nhiên hay xãy ra do phẫu thuật cắt bỏ tử cung hay do các hình thức hóa học trị liệu.
10. Có thai
Cuối cùng, bạn trễ và mất kinh là vì có thai. Một test thử thai đơn giản thường giúp bạn xác định bạn có trễ kinh vì có thai hay không. Bạn chỉ cần dùng que thử thai qua nước tiểu và khi thấy một vạch trên que tức bạn trễ kinh mà không có thai, nếu thấy hai vạch trên que thì bạn đã trễ kinh vì có thai. Các test thử thai bằng nước tiểu hoặc bằng máu là để tìm hóc môn
Theo Hoàng Cẩm (Nông nghiệp Việt Nam)
Yếu tố làm tăng tác dụng phụ của thuốc
Thuốc luôn là con dao hai lưỡi. Bên cạnh tác dụng chữa bệnh, thuốc còn gây cho người sử dụng những tai biến mà người ta còn gọi là những tác dụng không muốn muốn.
Yếu tố thuộc về bệnh nhân
Tuổi
Trẻ sơ sinh và người cao tuổi là những đối tượng có nguy cơ cao. Ở người cao tuổi, một số nghiên cứu cho thấy người cao tuổi gặp nhiều tác dụng không mong muốn của thuốc (ADR) hơn những người khác do lạm dụng thuốc, do có sự thay đổi về dược động học, dược lực học, do giảm chức năng các cơ quan. Người cao tuổi thường mắc nhiều bệnh cùng một lúc, sử dụng nhiều thuốc nên dễ gặp các tương tác bất lợi của thuốc. Ở trẻ sơ sinh, nguy cơ gặp các tác dụng không mong muốn cũng tăng lên, đặc biệt là ở những trẻ đẻ non (do một số enzyme liên quan đến chuyển hóa và thải trừ thuốc chưa đầy đủ). Các thuốc hay gây độc là morphin, các barbiturate, các sulfonamide, dẫn xuất của vitamin K và cloramphenicol...
Tư vấn dùng thuốc cho người dân tại nhà thuốc thuộc Công ty Cổ phần Dược - Thiết bị y tế Đà Nẵng. Ảnh: Diệu Minh
Giới tính
Nói chung không có sự khác biệt lớn về nguy cơ gặp ADR giữa hai giới. Tuy nhiên một số ADR hay gặp ở phụ nữ hơn nam giới. Ví dụ: phụ nữ có thể nhạy cảm hơn với độc tính của digoxin, heparin và captoprin. Thiếu máu bất sản do cloramphenicol gặp ở phụ nữ nhiều gấp 2 lần so với nam giới.
Đa dạng về gen và chủng tộc: Nhiều phản ứng trước đó được mô tả là các phản ứng đặc ứng ngày nay đã làm sáng tỏ là có các nguyên nhân về gen như ở những người thiếu hụt men G6PD do di truyền khi dùng những thuốc có tính ôxy hóa thì có thể bị thiếu máu tan máu.
Bệnh mắc kèm: Những bệnh mắc kèm có thể làm thay đổi đáp ứng của bệnh nhân đối với thuốc hoặc làm thay đổi dược động học của thuốc, dẫn tới phát sinh các tác dụng không mong muốn. Ví dụ điếc khi dùng kháng sinh aminoglycosid ở người có bất thường về thính giác, hoặc chảy máu trầm trọng do warfarin, heparin ở người có sẵn thiếu hụt về yếu tố đông máu. Các bệnh nhân mắc các bệnh về gan, thận sẽ có nguy cơ cao bị các tác dụng không mong muốn của những thuốc thải trừ ở dạng còn nguyên hoạt tính qua các cơ quan này.
Tiền sử dị ứng hoặc phản ứng với thuốc: Những bệnh nhân có tiền sử dị ứng với một thuốc cũng có thể gặp dị ứng với một thuốc khác có cấu trúc tương tự. Ví dụ như các trường hợp dị ững với kháng sinh penicillin cũng có thể bị dị ứng chéo với kháng sinh nhóm cephalosptin...
Yếu tố thuộc về thuốc
Đặc tính của thuốc: Về kỹ thuật bào chế, kích thước tiểu phân, lượng thuốc trong chế phẩm, tính chất và khối lượng tá dược... có thể dẫn tới thay đổi tốc độ giải phóng hoạt chất, gây ra tác dụng không mong muốn. Sử dụng một số tá dược cho các nhóm bệnh nhân nhạy cảm như các bệnh nhân hen, trẻ sơ sinh nhẹ cân và sự thay đổi hỗn hợp tá dược làm thay đổi sinh khả dụng của thuốc như digoxin, phenytoin cũng gây ra một số tác dụng không mong muốn. Đối với chất lượng sản phẩm thuốc, trong phần lớn các trường hợp, khi dùng một thuốc đã bị phân hủy thì dẫn đến thất bại điều trị, nhưng một số sản phẩm phân hủy của thuốc có thể gây độc hoặc thậm chí gây tử vong. Các tá dược hay gây phản ứng quá mẫn như polypropylene glycol, carboxymethyl cellulose và tartrazin.
Để nguy cơ tác dụng thuốc của thuốc tốt nhất nên hạn chế dùng thuốc
Tương tác thuốc: Tương tác bất lợi của các thuốc có thể làm thay đổi sinh khả dụng hoặc thay đổi dược lực học của thuốc và do vậy gây ra các tác dụng không mong muốn trên bệnh nhân. Do vậy, khi điều trị nhiều thuốc trong cùng một thời điểm thì tần suất gặp ADR tăng lên theo cấp số nhân với số lượng thuốc.
Liệu trình điều trị kéo dài: Nhiều tác dụng phụ không mong muốn ít xuất hiện trong thời gian ngắn, nhưng tỷ lệ tăng lên khi dùng dài ngày. Ví dụ, xuất huyết tiêu hóa do dùng các thuốc chống viêm không steroid hoặc corticoid kéo dài..
Làm gì để hạn chế?
Để hạn chế các ADR của thuốc, trước hết cần hạn chế dùng thuốc. Chỉ kê đơn và dùng các thuốc thật sự cần thiết. Nếu bệnh nhân đang sử dụng đồng thời quá nhiều thuốc thì cần cân nhắc để tạm ngừng những loại thuốc chưa thật sự cần thiết. Cần đánh giá có tương tác bất lợi hay không. Kiểm tra và hỏi bệnh nhân về những thuốc bệnh nhân tự dùng. Phải hiểu rõ tính chất dược lý, tương tác, cơ chế chuyển hóa và ADR của thuốc.
Chỉ nên kê đơn những thuốc đã biết đầy đủ thông tin Thường xuyên tham khảo, cập nhật các thông tin về thuốc và tương tác thuốc Thận trọng khi kê đơn những thuốc dễ xảy ra tương tác, đặc biệt là các tương tác do vô tình như tương tác của thuốc với thức ăn, rượu... Đối với những đối tượng bệnh nhân có nguy cơ cao như trẻ em, người già, người có cơ địa dị ứng, có bệnh lý về gan, thận và các bệnh bệnh nhân có bất thường về gen cần rất thận trọng Trong quá trình dùng thuốc cả thầy thuốc và bệnh nhân cần theo dõi sát, phát hiện sớm các biểu hiện của phản ứng bất lợi do thuốc gây ra để có những xử trí kịp thời.
Theo DS.Hoàng Thị Thu Thủy (Sức khỏe & Đời sống)
Ù tai - chớ chủ quan Ù tai là cảm nhận chủ quan của người bệnh về tiếng động xuất hiện trong đầu mà không có nguồn gốc từ môi trường bên ngoài. Nhiều người bệnh than phiền tiếng ù làm họ mệt mỏi, mất ngủ kéo dài, khó tập trung vào công việc... Ù tai không phải là bệnh mà chỉ là triệu chứng hay dấu hiệu của...