Về Ninh Thuận ra làng bè Đông Hải xem tắm cá
Ngày nào cũng thế, công việc của người nuôi cá bè cứ tất bật từ sáng sớm đến chiều tối. Quần lửng, áo thun, lưng phơi lên trời, mặt găm xuống chỉ cá với cá…
Bình yên làng bè Đông Hải
Tự bao giờ, mỗi khi có dịp xuống bờ biển thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, nhất là buổi tối nhìn ra vịnh Phan Rang, thấy ở xa ngoài khơi, những hàng đèn giăng giăng thật đẹp…
Ban ngày thì nhìn rõ hơn, từ gần rạng san hô lộ thiên Hải Chữ, Đông Ba kéo ra tới gần nửa vịnh, cách bờ biển Bình Sơn khoảng 7, 8 trăm mét trở ra hơn 2 km là chi chít hàng trăm bè nuôi hải sản, những cái chòi trên bè lô nhô như một ngôi làng chắn sóng cho vịnh Phan Rang.
Buổi sáng ở làng bè. Ảnh: NÚI XANH
Làng bè này chỉ xuất hiện vào cuối tháng 3 và cho đến tháng 10, khi mùa gió nam chuyển sang bấc, các bè phải di chuyển cả chục km ra phía trong hòn Đỏ để tránh sóng to gió lớn.
Buổi sáng trời êm gió. Mặt trời như một cái mâm son lấp lánh từ biển nhô lên. Phía xa, thành phố dường như đã thức, trên bãi biển có nhiều bóng người qua lại… Làng bè ở đây như vẫn còn ngủ mơ.
Theo con thuyền chở thức ăn cho cá ra bè, cảm giác trôi trên mặt biển lăn tăn sóng, mà tự nhiên thấy bình yên đến lạ. Thuyền len lỏi qua tiếng chó sủa từ các bè này qua bè khác.
Phát hiện đầu tiên là hầu như bè nào cũng có nuôi 2-3 chú khuyển mập mạp. Chúng chạy thoăn thoắt từ căn chòi ra đầu bè, chân sau choãi ra oai phong hướng mõm lên trời sủa ông ổng, nửa như hỏi thăm, nửa chừng hăm dọa.
Giá như có vài tiếng gà gáy nữa, thì nhắm mắt lại ta có thể tưởng tượng như mình đang đi trên con đường làng của một vùng quê nào đó…
Ra bè, việc đầu tiên của người lạ, là phải biết cách ngồi trên thuyền thúng sao cho khỏi nghiêng, để người bơi thúng dễ chèo.
Buổi sáng từ bờ ra bè, mang thức ăn cho hải sản và những vật dụng thiết yếu sinh hoạt, hầu như là công việc hàng ngày của những người nuôi cá bè ở đây. Bè gần bơi thúng, bè xa đi ghe. Lên bè, cũng phải biết cách để khỏi trượt chân vì thuyền thúng luôn xoay.
Thức ăn mang ra cho vật nuôi thì đủ dạng, gần như tất cả là thực phẩm tươi sống, không bè nào sử dụng thức ăn công nghiệp. Dùng cho vật nuôi nhỏ thì được xay sẵn trong bờ, độ nhuyễn của thức ăn tùy thuộc vào kích cỡ và thời gian đã nuôi. Riêng loại lớn thì chỉ việc dùng kéo cắt từng miếng như khẩu mía là được. Cá nuôi cũng đa dạng, chủ yếu ở đây các bè nuôi cá bớp, mú, bè…
Mỗi bè đều thấy có sự khác biệt về kích cỡ. Anh bạn trẻ nuôi cá bè cho biết, bè nhỏ thì 15 ô, thường thường thì 3, 4 chục ô, lớn hơn thì 6, 7 chục ô, cá biệt có bè tới 120 ô…
Ở vùng này gần như nuôi cá là chủ yếu, chỉ có số ít bè nuôi thả tôm hùm. Cứ nhìn bè nào có 2 chòi thì đấy là bè khá lớn. Mỗi ô nuôi có diện tích khoảng 9 m, nuôi tôm hùm thì đóng lồng, nuôi cá thì quây lưới. Lưới quây có độ sâu khoảng 3 sải (cỡ 4,5 mét), cá nhỏ ban đầu mỗi ô thả độ 1000 con. Sau một thời gian cá lớn thì phải tách đàn; tách cho đến khi xuất bán mỗi ô chỉ còn hơn 100 con là vừa.
Chăm cá cũng không phải chuyện dễ dàng gì. Cá nhỏ cho ăn ngày ăn ba lần, lớn thì hai lần. Người nuôi phải thường xuyên thăm chừng xem cá no hay đói, có bệnh tật gì không… No thì chúng rủ nhau xuống đáy nằm, đói thì hễ thấy bóng người là nhao lên xoay vòng như biểu diễn bơi nghệ thuật.
Video đang HOT
Đi kiểm tra thì gần như hàng ngày, thỉnh thoảng phải đeo kính, ngậm ống bơm hơi, lặn xuống để “khám sức khỏe” cho cá.
Tắm cá
Có một việc người nuôi cá bè thường phải làm, nhưng nếu nghe thì nhiều người chắc cũng thấy lạ, đấy là tắm cá. Cá nhỏ năm ngày, một tuần tắm một lần. Cá lớn tám đến 10 ngày mới tắm.
Cá biển nhưng khi tắm phải dùng nước ngọt chở từ bờ ra. Nước ngọt được pha một lượng oxy già nhất định và chứa trong một cái bồn nhựa.
Anh bạn nuôi cá bè chia sẻ “Oxy già tan tốt trong nước, pha loãng rồi nên không ảnh hưởng gì đến việc sinh trưởng của cá. Chỉ cần áp dụng đúng tỷ lệ và thời gian, thời điểm thôi.
Tắm cá vẫn cần có kinh nghiệm đã được rút ra trong cuộc sống hàng ngày.
Tắm cá bằng cách này, các loại ký sinh trùng, nấm có hại bám trên cá sẽ bị tiêu diệt. Nuôi cá sợ nhất là cá bị ký sinh trùng gây đỏ dẫn tới mù mắt. Tắm cá cũng phải đúng thời điểm, cá no mà tắm cũng không được. Đã có lần tôi tắm lúc cá còn no, thế là nó ói mồi ra rồi chết cả chục con. Xúc cá để tắm cũng phải đúng cách, tránh làm tổn thương cá…”.
Thì ra công việc đơn giản nhất vẫn cần có kinh nghiệm đã được rút ra trong cuộc sống hàng ngày.
Chiều gió nổi, bè dập dềnh như đang chơi trò bập bênh. Anh bạn pha nước để tắm cá xong, xách vợt ra đứng bên ô cá, thấy cá nhao lên đòi ăn nói: “Cá đói rồi nè”.
Kéo đáy bốn góc lưới lên cho cá tụ lại để dễ vợt. Hôm nay bè tắm cá bớp bốn tháng tuổi, mỗi con ước chừng cỡ gần 2 kg. Cá được vợt lên bỏ vô bồn nước quẫy ầm ầm.
Bốn tháng cũng đã trải qua cả chục lần được tắm nên những chú cá có vẻ cũng quen, sau vài phút lại chúng lại được trở về “nhà” của mình bên một ô mới đã được làm vệ sinh sạch sẽ. Khoảng bốn tháng nữa khi trọng lượng khoảng 5-6 kg lô cá này sẽ được xuất bán.
Ngày nào cũng thế, công việc của người nuôi cá bè cứ tất bật từ sáng sớm đến chiều tối. Quần lửng, áo thun, lưng phơi lên trời, mặt găm xuống chỉ cá với cá…
Anh bạn ở bè bên cạnh qua chơi tâm sự: “Nuôi cá bè mấy năm nay cũng hên xui, nhất là gặp mùa dịch COVID-19 này, cá đến lứa xuất giá thấp lắm, em vừa lỗ hơn 200 triệu đấy. Biết thế nhưng có bỏ nghề được đâu anh.
Nuôi cá thành cái nghiệp rồi, mình đầu tư cả tỷ đồng vào bè, bây giờ bỏ sao được, lỗ lãi cũng là chuyện bình thường, còn cả vì công việc người làm cho mình nữa, có muốn sang lại bè cũng không ai mua… Thôi thì cũng phải cố gắng, biển cũng không phụ mình đâu”.
Trời vừa tối, phía trong bờ thành phố đã rực ánh đèn. Mấy người bè bên cạnh rủ nhau chèo thúng tới ăn cơm cho vui. Những câu chuyện trong bữa cơm rôm rả, cũng chỉ xoay quanh chuyện con cá mình đang nuôi dưới bè.
Đêm về giữa biển gió mát rượi, văng vẳng tiếng chó sủa mấy người đang chạy ghe vợt bắt cá nhái.
20 giờ, trăng đầu tháng đã lên giữa đỉnh, chỉ còn tiếng sóng oàm oạp vỗ vào phao bè. Làng nổi giữa biển cũng đã bềnh bồng chìm vào giấc ngủ say.
Một số hình ảnh tại làng bè Đông Hải:
Buổi sáng yên bình ở làng bè Đông Hải
Chuyển thức ăn ra bè, cho cá ăn.
Tắm cá
Tháp Pô Klong Garai Nơi thờ vị vua Rồng của người Chăm
Tháp Pô Klong Garai, địa danh nổi tiếng của Ninh Thuận được cả nước biết đến. Tính về thời gian xây dựng, đến nay, tháp đã có tuổi đời hơn 700 năm.
Tháp không quá cao lớn, đồ sộ, nhưng nét thu hút và lưu lại trong trí nhớ nhiều người là kiến trúc, kỹ thuật, màu sắc đặc biệt, cũng như huyền thoại mang trong nó. Đó là câu chuyện về vị vua Rồng còn lưu truyền đến hôm nay.
Tháp Pô Klong Garai với kiến trúc đẹp mê mẩn.
Kỹ thuật xây tháp còn nhiều bí ẩn
Chúng ta biết đến Ninh Thuận là vùng đất đầy nắng gió, cũng như là vùng đất có bờ biển đẹp, màu xanh của nó hòa cùng màu cát trắng trải dài khiến nhiều người thích thú. Có lẽ do cái nắng gắt ở đây, mà chúng ta như thấy biển Ninh Thuận xanh hơn, cát Ninh Thuận trắng hơn so với các vùng miền khác trên đất nước ta.
Chúng ta còn biết đến Ninh Thuận với những đặc sản như nho, dê, cừu, tỏi... Và hơn hết, khi nhắc đến Ninh Thuận là người ta liền nhớ ngay đến những điệu múa Chăm huyền ảo, những tháp Chăm độc đáo khó rời mắt. Tôi có mặt ở tháp Pô Klong Garai vào một ngày mùa thu. Đứng ở cổng di tích nhìn hướng mắt lên, tưởng đâu mình đang lạc vào xứ sở kỳ diệu, bởi màu đỏ cổ kính, bởi kiểu dáng của cụm tháp. Vì vậy, mà tôi cố bước nhanh chân đến xem thực hư thế nào.
Cái nắng gắt không cản được tôi, mà ngược lại, chính cái nắng đó càng làm cho màu tháp trở nên đẹp hơn, và thôi thúc tôi hơn để cố lên nhanh bằng được ngắm tháp khi nắng còn trong hắt vào sẽ như thế nào. Tháp được xây dựng vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14 thời vua Chế Mân để thờ vua để thờ vua Pô Klong Garai (1151-1205), nằm trên Đồi Trầu, thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thành phố Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về phía Tây Bắc. Đứng trên đồi tháp này, du khách có thể quan sát được nhiều ngôi làng Chăm cũng như thấy được một phần thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.
Trong cuốn "Tháp Chăm: Sự thật và Huyền thoại" (Nxb VH TT, Hà Nội) của Ngô Văn Doanh, thì di tích tháp Pô Klong Garai bao gồm 3 ngôi tháp (tháp Chính, tháp Cổng, tháp Lửa) và một ngôi đền thờ nhỏ. Tất cả tháp đều xây bằng gạch có 3 tầng kiểu giật cấp. Tháp chính cao 20,5m, có 3 cửa giả và một cửa chính phía đông. Trong tháp chính thờ vị vua Pô Klong Garai bằng tượng đá, kiểu Mukalinga. Bên trong tháp chính còn có tượng bò Nandin bằng đá.
Trên cửa chính của tháp thờ thần Siva có 8 cánh tay, 2 tay chắp lên đầu cầu nguyện, 6 tay còn lại cầm các vật như dao găm, chĩa ba, bông sen, chén dầu dừa... Những vật cầm này tượng trưng cho thiện và ác, biểu hiện lưỡng tính của Siva (thần Hủy diệt và thần Sáng tạo). Tháp cổng cao 8,56m. Đằng sau tháp chính có một đền nhỏ thờ Hoàng Hậu Bia Nai Kon tương truyền là vợ của Pô Klong Garai. Ở phía Nam còn có tháp Lửa cao 9,31m, nơi hàng năm người Chăm cúng tế thần lửa. Ngoài ra, di tích này còn có nhiều bia ký ghi lại năm tháng xây dựng đền, chiến tranh và hòa bình ở vùng đất Ninh Thuận dưới thời vua Pô Klong Garai.
Về kỹ thuật xây tháp, theo ban quản lý di tích tỉnh Ninh Thuận, đến nay, cũng như bao tháp Chăm khác, kỹ thuật xây tháp Chăm như thế nào vẫn còn nhiều bí ẩn, có nhiều giả thuyết khác nhau về chất kết dính gạch tháp Chăm: Phương pháp dùng dầu rái (chiết xuất từ cây dầu rái) làm chất kết dính?
Dùng gạch mộc có pha phụ gia xây lên rồi nung tạo thành chất kết dính? Kỹ thuật mài chập hai viên gạch lại tạo chất kết dính với nhau? Mặc dù ngày nay khoa học kỹ thuật phát triển nhưng con người chưa khám phá bí ẩn để trả lời về những câu hỏi liên quan đến tháp Chăm một cách chính xác.
Điểm qua lối kiến trúc, kỹ thuật của tháp Pô Klong Garai, chắc có lẽ đều gây tò mò, cũng như muốn khám phá trong mỗi chúng ta. Những người kiến trúc xưa, không biết bằng cách nào mà tạo nên được những ngôi tháp đẹp, lắt léo, tỉ mỉ về kiến trúc như vậy. Và chúng ta, chắc chắn phải trầm trồ về những đôi bàn tay khéo léo của những người thợ đã tạo nên một kiến trúc vượt thời gian cho hậu thế được chiêm bái, ngưỡng vọng.
Truyền thuyết về vị vua Rồng
Lối kiến trúc của tháp Pô Klong Garai được nhà nghệ thuật học nổi tiếng người Pháp Philippe Stern xếp vào "phong cách muộn", tên này là đặt theo thời gian, để nói về những tháp được xây dựng từ đầu thế kỷ 14 đến cuối thế kỷ 17. Dù xếp theo phong cách nào, thì tháp Pô Klong Garai cũng như những tháp khác, đều mang đậm dấu ấn của kiến trúc Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo được coi là tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, gồm bộ kinh sách Vệ Đà.
Một phần trên đỉnh tháp.
Tháp Pô Klong Garai có tên gọi như vậy là vì thờ vị vua Rồng Pô Klong Garai. Chuyện kể rằng, xưa kia ở Plei Chakling, tức là Mỹ Nghiệp (được dịch: Plie tiếng Việt là "làng", Chakling là "Mỹ Nghiệp"), Ninh Thuận, có hai vợ chồng Muk Chakling và Ong Paxa, sống với nhau lâu nhưng không có con. Trong một lần đi rẫy gần đập nước, có tài liệu nói là đi ra biển, ông bà thấy một vật trôi trên nước, đi lại thì thấy một bé gái nằm trong vật trôi đó. Sau đó, họ mang về nuôi, và nhận là con, đặt tên là Karit. Karit lớn lên xinh đẹp, nết na, được nhiều người ca ngợi.
Trong một lần cùng bố vào rừng đốn củi đúng hôm trời nắng nóng nên việc tìm kiếm nước uống rất khó khăn. Bỗng nhiên, Karit thấy ở trũng của một tảng đá có nước trong mát nên lại uống, sau đó cô gọi Ong Paxa lại. Nhưng khi người bố đến, thì nước không còn. Sau khi về nhà không lâu, Karit thấy khó chịu trong người, khi được thầy thuốc khám, mới biết là có thai.
Karid đau khổ, vì khi đó luật tục phụ nữ không chồng mà chửa bị đem ra đàm tiếu. Nhưng cô vẫn cam chịu và sinh được bé trai. Nhưng đáng buồn thay, đứa bé lại ghẻ lở và xấu xí. Lời đàm tiếu lại càng nặng nề hơn, nên Karit bỏ nhà ra đi. Có người nói, cô đã gieo mình xuống sông. Đứa bé được ông bà nuôi dưỡng và đặt tên là Po Ong, có tài liệu gọi là Jatol.
Mặc dù xấu xí nhưng Jatol lớn lên khỏe mạnh. Khoảng 10 tuổi, cậu đi chăm bò thuê. Trong lần mải chơi để lạc mất bò, cậu trèo lên một cây cao và phát hiện thấy bò đang lạc trong vườn nhà một gia đình giàu có. Cậu trèo xuống, thì cây kia phát ánh sáng chói và biến thành con rồng nhìn cậu. Nhưng cậu thì đang bận nghĩ cách đi xin lại con bò, nên nỗi sợ mất đi.
Chủ nhà cho cậu xin lại bò, và phát hiện ra tướng lạ nên hứa sẽ gả con gái cho, mặc cô con gái không thích. Sau này, Jatol cùng cậu bạn là Po Klong Chanh đi buôn trầu; một hôm trời nắng nóng, Jatol mệt nên nằm ngủ ở tảng đá mát, còn cậu bạn đi tìm nước; lúc trở lại, Po Klong Chanh thấy bạn mình đang được hai con Bạch Long (rồng trắng) từ trời bay xuống, liếm vào mặt. Khi Jatol tỉnh dậy, cậu trở thành một chàng trai khôi ngô, tuấn tú. Việc này được lan truyền ra khắp nơi. Jotol lấy cô gái xinh đẹp con của ông trả lại bò trước đây, đã hứa với mình.
Trong thời gian này, năm 1167, vua Xulika băng hà, nội bộ lục đục. Con voi trắng của vua Xulika phá chuồng, trở nên hung dữ, chạy đến tìm Jatol. Đây được coi là sự lạ, cùng với việc Jatol được rồng liếm mặt, nên nhân dân đã tôn thờ cậu lên làm vua, xưng hiệu là Pô Klong Garai, đóng đô ở Bal Hagâu. Pô Klong Garai được coi là vị vua tài giỏi, giúp dân cứu nước. Sau khi lo cho nhân dân no ấm, ông đã hóa thân về trời, và được nhân dân thờ phụng cho đến ngày nay.
Những khoảnh khắc đẹp ở miền duyên hải Đồi cát trắng, đồng cừu, tháp Chàm ở Ninh Thuận là những hình ảnh thu hút các nhiếp ảnh gia vào mỗi dịp hè. Nói đến Ninh Thuận nghĩ đến đồi cát Với vị trí ven biển, khí hậu quanh năm nắng ấm, nhiều bãi biển sạch đẹp, cảnh quan tự nhiên và thơ mộng, giao thông thuận lợi, Ninh Thuận đang là...