VDSC: Cấu trúc tài chính HSG dần bền vững, nợ vay đã giảm
Trong báo cáo phân tích về Tập đoàn Hoa Sen (HSG), Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho biết Hoa Sen sẽ tiến hành đẩy mạnh bán hàng ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu, bên cạnh đó cấu trúc tài chính của Công ty đã dần bền vững hơn.
Dự phóng sản lượng tiêu thụ nội địa tăng 10%
Trong niên độ tài chính (NĐTC) 2020-2021, HSG đặt mục tiêu tăng sản lượng tiêu thụ, doanh thu và lợi nhuận ròng 10% so với cùng kỳ. Công ty sẽ tiến hành đẩy mạnh bán hàng ở cả thị trường nội địa và xuất khẩu.
HSG kỳ vọng sản lượng tiêu thụ tại thị trường nội địa sẽ tăng khoảng 10% trong NĐTC 2020-2021. Nhu cầu từ các hoạt động xây dựng công nghiệp có thể tăng mạnh trong những năm tới do các công ty đa quốc gia dịch chuyển một phần cơ sở sản xuất sang Việt Nam.
Tuy nhiên, dòng vốn FDI có thể gặp nhiều trở ngại trong ngắn hạn do việc kiểm soát xuất nhập cảnh để phòng dịch.
Sản lượng xuất khẩu của HSG dự kiến sẽ tăng trưởng ở tốc độ tương đương với sản lượng tiêu thụ trong nước. Theo đại diện của HSG, sau đại dịch, một số quốc gia đã đẩy mạnh đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng, do đó, nhu cầu nhập khẩu tôn mạ được dự báo sẽ cao hơn.
Lượng đơn đặt hàng xuất khẩu trong quý 1 tương đối cao và đã đạt mức phân bổ sản lượng tối đa dành cho xuất khẩu, do đó, sản lượng xuất khẩu dự kiến sẽ được duy trì hoặc tăng so với quý 4 NĐTC trước.
Sau khi hoàn thành các hợp đồng ở quy mô vừa phải, HSG đã dần gây dựng được uy tín tại các thị trường khó tính tại các thị trường khó tính như EU, Canada, Mexico. Vì vậy, công ty bắt đầu nhận được những đơn hàng lớn hơn và có thể tăng sản lượng bán hàng sang các thị trường này trong NĐTC 2020-2021.
Biên lợi nhuận gộp tại các thị trường này cao hơn so với các thị trường truyền thống, như các nước Đông Nam Á. Hiện tại, biên lợi nhuận gộp xuất khẩu đạt 10% -12%, cao hơn so với những năm trước do tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường khó tính tăng.
Rủi ro trong các đơn hàng xuất khẩu của HSG tương đối ít do công ty thường chốt giá bán trước khi giao hàng khoảng 1,5-2 tháng, và có thể mua nguyên liệu sau đó để sản xuất.
Về mảng ống nhựa, HSG dự kiến tăng sản lượng tiêu thụ từ khoảng 4 nghìn tấn/tháng lên 4,5-5 nghìn tấn/tháng.
Chi phí lãi vay của HSG đã giảm, cấu trúc tài chính đang ổn định
VDSC cho rằng cấu trúc tài chính của HSG đang trở nên bền vững hơn và chi phí lãi vay giảm đang hỗ trợ biên lợi nhuận ròng. Tổng nợ của HSG giảm 15,5% so với cùng kỳ trong Q4/NĐTC 2019-2020, do đó, chỉ số tổng nợ trên vốn chủ sở hữu cũng giảm từ 1,8 lần trong Q4/NĐTC 2018-2019 xuống còn 1,2 lần trong Q4/NĐTC 2019/2020.
HSG có kế hoạch giảm tỷ lệ này xuống dưới 1,0 lần trong NĐTC 2020-2121. Công ty kỳ vọng dòng tiền từ hoạt động kinh doanh dồi dào sẽ đủ để tài trợ cho vốn lưu động mà không cần sử dụng nợ. Chi phí khấu hao của HSG trong NĐTC 2019-2020 là 1.136 tỷ đồng, cao hơn mức đầu tư vào vốn lưu động, chỉ 891 tỷ đồng.
VDSC kỳ vọng HSG sẽ không tăng mạnh hàng tồn kho và các khoản phải thu trong NĐTC 2020-2021, do đó, công ty có thể sử dụng nguồn vốn nội bộ để tài trợ vốn lưu động.
Do dư nợ giảm, chi phí lãi vay của HSG đã giảm 40% QoQ trong Q4/NĐTC 2019-2020. Chi phí lãi vay/ doanh thu cũng giảm từ 2,9% trong Q4/NĐTC 2018-2019 xuống còn 1,4% trong Q4/NĐTC 2019-2020, do đó, tỷ suất lợi nhuận ròng đã được hỗ trợ.
Mặc dù triển vọng về sản lượng tiêu thụ của HSG đang trở nên tích cực hơn, cạnh tranh gia tăng trong mảng tôn mạ và ống thép có thể ảnh hưởng tiêu cực lên khả năng sinh lời của ngành. Trong Q1/NĐTC 2020-2021, biên lợi nhuận gộp của HSG vẫn ở mức tương đối tích cực, mặc dù thấp hơn 4Q / NĐTC19-20, do giá HRC vẫn tiếp tục tăng trong hai tháng qua.
Bên cạnh đó, sản lượng bán hàng trong quý 1 dự kiến vẫn tốt do sản lượng xuất khẩu được duy trì ở mức cao, trong khi đó, tiêu thụ nội địa có thể tăng do nhu cầu sửa chữa nhà ở và nhà xưởng.
VDSC đưa ra giá mục tiêu là 16.800 đồng/cp, dựa trên mức P/E (với mức mục tiêu là 7,0 lần) và phương pháp FCFF (với mức exit EV/EBITDA là 6,3 lần, WACC là 11,9%). Khuyến nghị trung lập đối với cổ phiếu này trong trung hạn.
Kinh tế Việt Nam tăng tốc trở lại trong quý III
Ngày 17-10, Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam công bố báo cáo Cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô Việt Nam tháng 10-2020, trong đó lạc quan về khả năng phục hồi kinh tế mạnh mẽ và sâu rộng của Việt Nam, với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2020 có thể đạt từ 2,5% tới 3%.
Ảnh minh họa.
Theo báo cáo, WB ghi nhận kinh tế Việt Nam đã phục hồi và tăng tốc trong quý III với tăng trưởng đạt 2,62% so với cùng kỳ năm 2019 - cao hơn mức tăng trưởng 0,39% (so với cùng kỳ năm trước) của quý II, dù dịch Covid-19 bùng phát tại Đà Nẵng và các tỉnh lân cận. Việt Nam đã kiểm soát tốt dịch, khi từ đầu tháng 2 đến ngày 12-10, cả nước chỉ ghi nhận khoảng 1.100 ca nhiễm, trong đó có 35 ca tử vong. Cho đến nay, không có ca lây nhiễm cộng đồng nào trong hơn một tháng.
Cũng theo WB, tốc độ phục hồi kinh tế vững chắc của Việt Nam là nhờ mức tăng trưởng cao của chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 9 (tăng 2,4% so với tháng 8 và 4,8% so với tháng 9-2019). Tăng trưởng nguồn thu từ bán lẻ hàng hóa và dịch vụ hồi phục lên mức 2,2% so với tháng 8 và tăng 5,3% so với tháng 9-2019, với tỷ lệ lớn doanh thu đến từ hoạt động bán hàng từ xa qua đường bưu điện.
Ở cấp độ ngành, các ngành công nghiệp đã tăng 3,08% từ tháng 1 đến tháng 9, tiếp theo là nông nghiệp (1,84%) và dịch vụ (1,37%). Lạm phát giảm so với tháng 7 và tháng 8, ở mức 3,2% (so với cùng kỳ năm trước) cho tháng 9.
Khu vực đầu tư nước ngoài có khả năng phục hồi tốt do thặng dư thương mại hàng hóa của Việt Nam đạt 16,9 tỷ USD trong 9 tháng của năm 2020, trong khi cam kết vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tăng từ 720 triệu USD trong tháng 8 lên khoảng 1,5 tỷ USD vào tháng 9. Đây là tín hiệu rất tích cực trong bối cảnh dòng vốn FDI toàn cầu được dự đoán giảm từ 30-40%.
Tuy nhiên, WB cũng chỉ ra sự sụt giảm lớn trong ngành dịch vụ, do ngành du lịch và vận tải bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi cuộc khủng hoảng Covid-19. Số lượng khách du lịch nước ngoài giảm 70% trong 9 tháng của năm 2020 so với cùng kỳ năm trước nhưng đang trên đà tăng trở lại. Tín dụng của cả nền kinh tế tiếp tục tăng khiêm tốn, khoảng 10,2% (so với cùng kỳ năm trước) trong tháng 9, gây áp lực ngày càng lớn lên những ngân hàng thương mại đang phải đối mặt với lợi nhuận giảm dần.
Bên cạnh đó, dù các điều kiện trên thị trường lao động đang dần trở lại bình thường kể từ khi hết giãn cách xã hội, nhưng tỷ lệ việc làm và tỷ lệ tham gia lao động đều tiếp tục giảm, gây tác động đến lao động khu vực thành thị.
WB khuyến nghị, Việt Nam cần quan tâm nhiều hơn đến việc giảm thiểu rủi ro trong lĩnh vực tài chính công và khu vực tài chính.
Kinh Bắc của đại gia Đặng Thành Tâm báo lãi quý 1 giảm đến 40% do giá vốn phình to Trong quý 1/2020, Kinh Bắc City có lãi sau thuế giảm gần 9% về mức 94 tỷ đồng, trong đó lợi nhuận sau thuế thuộc về công ty mẹ đạt gần 54 tỷ đồng, giảm 40%. Theo Báo cáo tài chính quý 1/2020, Tổng Công ty Phát triển Đô thị Kinh Bắc (Kinh Bắc City, HoSE: KBC) ghi nhận doanh thu thuần đạt...