Thương hiệu quốc gia Việt Nam liên tục gia tăng về giá trị và thứ hạng
Ngày Thương hiệu Việt Nam 20/4 với chủ đề “Nâng tầm vị thế-chắp cánh bay xa” diễn trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp, tình hình chính trị bất ổn đã tác động tiêu cực đến nhiều mặt đời sống kinh tế- xã hội và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cộng đồng doanh nghiệp vẫn vững vàng vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi kinh tế đất nước, qua đó nâng cao hình ảnh quốc gia Việt Nam trên trường quốc tế, ghi tên Việt Nam vào nhóm quốc gia có thương hiệu mạnh.
Xung quanh chủ đề này, phóng viên TTXVN đã phỏng vấn ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại ( Bộ Công Thương) nhằm định hướng tới độc giả, góp phần lan toả và cổ vũ doanh nghiệp trong việc đổi mới, sáng tạo và phát triển bền vững.
Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương. Ảnh: Thành Chung/TTXVN
Thương hiệu của sản phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp và thương hiệu quốc gia có mối quan hệ rất chặt chẽ và mang tính tác động qua lại, ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau. Với vai trò Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại – Trưởng ban Thư ký chương trình Thương hiệu quốc gia, xin ông chia sẻ những đóng góp của doanh nghiệp để góp phần vào sự thành công thương hiệu quốc gia?
Những năm qua, Thương hiệu quốc gia Việt Nam liên tục được gia tăng về giá trị và thứ hạng trên trường quốc tế, được nhiều tổ chức quốc tế uy tín ghi nhận.
Để đạt được thành công đó, ngoài yếu tố về kinh tế vĩ mô, chính trị, văn hóa, xã hội…còn có vai trò và sự đóng góp của cộng đồng doanh nghiệp.
Bởi giá trị thương hiệu và sự thành công trong xây dựng, quản trị phát triển thương hiệu của các doanh nghiệp top đầu là những biến số đầu vào trọng yếu trong quá trình tính toán, thống kê giá trị thương hiệu quốc gia của các tổ chức quốc tế.
Nhờ từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam liên tục gia tăng mạnh mẽ, cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam trong những năm qua.
Điều này giúp thương hiệu hàng hóa Việt Nam được người tiêu dùng thế giới biết đến và công nhận rộng dãi hơn, ghi thêm điểm cộng cho giá trị Thương hiệu quốc gia Việt Nam hàng năm.
Nếu như năm 2006, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ ở mức 84,7 tỷ USD; trong đó, xuất khẩu là 39,8 tỷ USD và nhập khẩu là 44,9 tỷ USD, thì đến năm 2021 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã tăng gần 800%, lên 668,5 tỷ USD; xuất khẩu đạt 336,3 tỷ USD và nhập khẩu đạt 332,2 tỷ USD.
Với kết quả đó, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã ghi nhận Việt Nam hiện đang đứng vị trí 20 trong số 50 nước có nền thương mại hàng hóa lớn nhất thế giới.
Ngoài ra, cùng với các chính sách vĩ mô của Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp đã nỗ lực hưởng ứng và góp phần thay đổi tích cực cơ cấu các ngành hàng xuất khẩu.
Từ những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, thủy sản, hay những sản phẩm hàng hóa là tài nguyên khoáng sản như than đá, dầu thô… sang các nhóm hàng có giá trị gia tăng cao, công nghệ cao như điện thoại, máy vi tính, máy móc…
Năm 2016, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến trong tổng kim ngạch xuất khẩu là 80,3%, đến năm 2020 là 85,2% và dự kiến năm 2025 sẽ tăng 90%. Hơn nữa, nhờ chú trọng đầu tư cho xây dựng, quản trị, phát triển thương hiệu nhiều doanh nghiệp Việt Nam được các tổ chức quốc tế uy tín xếp hạng trong Top các doanh nghiệp cùng ngành, lĩnh vực trên toàn cầu, góp phần nâng cao giá trị thương hiệu quốc gia.
Video đang HOT
Đơn cử như Viettel là doanh nghiệp Việt duy nhất lọt trong “Bảng xếp hạng Top 500 thương hiệu giá trị nhất thế giới 2022″ (Global 500) và đứng ở vị trí 227. Ngoài ra, Viettel tiếp tục duy trì vị trí số 1 về thương hiệu viễn thông tại Đông Nam Á và nằm trong top 3 thương hiệu giá trị nhất khu vực.
Vinamilk đứng thứ 8 trong top 10 thương hiệu sữa giá trị nhất toàn cầu năm 2021 theo xếp hạng của Brand Finance. Không chỉ đạt thứ hạng cao ở ngành sữa, Vinamilk đã chinh phục 2 bảng xếp hạng là Top 5 thương hiệu thực phẩm mạnh nhất toàn cầu và nằm trong top 30 của 100 thương hiệu thực phẩm giá trị nhất toàn cầu với vị trí thứ 27, tăng mạnh 9 bậc so với năm 2020.
Những năm gần đây, thứ hạng giá trị Thương hiệu quốc gia Việt Nam liên tục được cải thiện trên Bảng xếp hạng thế giới và nằm trong nhóm thương hiệu mạnh. Cục trưởng đán.h giá thế nào xung quanh vấn đề này?
Giai đoạn 2016-2020, giá trị thương hiệu Việt Nam tăng 226% từ 141 tỷ USD (năm 2016) lên 319 tỷ USD (năm 2020), xếp thứ 33 trong top 100 thương hiệu mạnh thế giới.
Bất chấp dịch COVID-19, năm 2021, thương hiệu quốc gia Việt Nam tiếp tục duy trì thứ hạng 33 trong danh sách này, đạt 388 tỷ USD giá trị thương hiệu, tăng 21,69% so với năm 2020.
Để đạt được những thành quả trên, trước hết là chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành thống nhất của Chính phủ trong các hoạt động kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa, xã hội đã tạo cho Việt Nam có uy tín cũng như vị thế trên trường quốc tế.
Cùng với đó, các bộ, ngành và địa phương, bằng việc thực hiện Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam đã nỗ lực xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam là quốc gia có hàng hóa và dịch vụ có chất lượng không chỉ ở thị trường trong nước mà cả trên thị trường quốc tế.
Điều này góp phần thúc đẩy sự thăng hạng mạnh mẽ của Thương hiệu quốc gia Việt Nam trong thời gian qua và đưa Việt Nam lọt vào nhóm các nước có thương hiệu mạnh.
Đặc biệt là sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp nhằm gia tăng giá trị và vị trí của thương hiệu quốc gia trên trường quốc tế.
Trong 2 năm qua, với nhiều khó khăn, thách thức do dịch COVID-19 gây ra, đi kèm đó là xung đột kinh tế, địa chính trị của một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, nhưng với tính chủ động, sáng tạo vốn có của các doanh nghiệp Việt đã giúp các sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam nâng tầm vị thế, khẳng định được giá trị và chất lượng trên thị trường trong và ngoài nước.
Để chinh phục các thị trường “khó tính”, ngoài nâng cao chất lượng, tăng sự khác biệt với sản phẩm cùng loại của các quốc gia khác…, theo Cục trưởng, doanh nghiệp cần làm gì để xây dựng thương hiệu thành công?
Để xây dựng thành công một thương hiệu ở thị trường “khó tính”, ngoài vấn đề về chất lượng và sự khác biệt, doanh nghiệp cần lưu ý đến việc đăng ký bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến sản phẩm ở nước ngoài. Đây có thể xem là việc quan trọng để đảm bảo thành công cho việc xây dựng và phát triển thương hiệu ở nước ngoài. Bởi nhiều doanh nghiệp ngại đăng ký vì thủ tục rườm rà, rắc rối, chồng chéo, đã tạo cơ hội cho tình trạng ăn cắp mẫu mã để làm giả, làm nhái khá phổ biến.
Mặt khác, thường xuyên thực hiện các hoạt động nghiên cứu, phát triển sản phẩm để đáp ứng yêu cầu về chất lượng, đổi mới, sáng tạo và có tính tiên phong trên thị trường.
Nếu không thực hiện thường xuyên, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ rơi vào tình trạng xuất khẩu các sản phẩm không phù hợp với nhu cầu của thị trường như thiết kế kích thước, màu sắc, kiểu dáng …
Bên cạnh đó, tìm kiếm liên kết để xây dựng thương hiệu Việt như kết nối cung cầu, kết nối giữa nhà sản xuất trong nước với các doanh nghiệp phân phối nước ngoài, thu hút đầu tư nước ngoài sản xuất để xuất khẩu hàng hóa Việt Nam vào hệ thống phân phối ở nước ngoài.
Cuối cùng và cũng là quan trọng nhất là nhận thức của doanh nghiệp về vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng, quản trị và phát triển thương hiệu ở nước ngoài, để từ đó giành nguồn lực phù hợp, coi chi phí cho hoạt động này là một khoản đầu tư trung và dài hạn giúp nâng cao giá trị doanh nghiệp.
Xin Cục trưởng cho biết định hướng của Chương trình Thương hiệu quốc gia thời gian tới như thế nào và Bộ Công Thương có động thái gì để thúc đẩy chương trình ngày càng phát triển?
Căn cứ vào mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể mà Thủ tướng Chính phủ đã giao trong Quyết định số 1320/QĐ-TTg ngày 08/10/2020 phê duyệt Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam giai đoạn 2020 đến năm 2030, định hướng trong thời gian tới Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các bộ, ngành thực hiện các hoạt động chính.
Theo đó, Bộ sẽ thực hiện thật tốt kỳ xét chọn lần thứ 8 các sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia năm 2022 và sẽ tổ chức Lễ công bố trong quý IV năm 2022.
Ngoài ra, Bộ tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và xã hội về vai trò, ý nghĩa và sự cần thiết của việc xây dựng và phát triển thương hiệu trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là cấp lãnh đạo doanh nghiệp.
Cùng với đó, tăng cường các hoạt động nâng cao năng lực xây dựng, phát triển và quản trị thương hiệu cho các doanh nghiệp, nhất là đáp ứng hệ thống tiêu chí của thương hiệu quốc gia Việt Nam.
Hơn nữa, tập trung các hoạt động tuyên truyền, quảng bá Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam và các sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia, nhất là ngoài nước và với các sản phẩm tiềm năng.
Đặc biệt, Bộ Công Thương sẽ phát động, kêu gọi sự tham gia đồng hành của các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có sản phẩm đạt Thương hiệu quốc gia Việt Nam trong việc cùng chung tay phát triển Chương trình Thương hiệu quốc gia Việt Nam đúng với ý nghĩa, tầm vóc là chương trình của Chính phủ, vì một Việt Nam hùng cường với những thương hiệu sản phẩm, thương hiệu doanh nghiệp có giá trị.
Xin trân trọng cảm ơn Cục trưởng.
Xây dựng thương hiệu nông sản, gia vị Việt bằng sản phẩm chế biến
Nền kinh tế nông nghiệp luôn có thế mạnh về nông sản, gia vị. Đây là một phần không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của con người.
Đặc biệt, gia vị giữ vai trò quan trọng trong việc tạo sự khác biệt giữa các sản phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp và quốc gia. Đây là nhận định của các chuyên gia tại Tọa đàm "Dòng chảy thị trường gia vị" do Hội hàng Việt Nam chất lượng cao tổ chức ở TP Hồ Chí Minh, ngày 15/4.
Thu hoạch ớt Chánh Phong tại xã Phương Thịnh, huyện Cao Lãnh (Đồng Tháp). Ảnh minh họa: Nguyễn Văn Trí/TTXVN
Cải tiến chất lượng, tiện lợi
Theo các chuyên gia, nhiều mặt hàng nông sản, gia vị Việt Nam đang rất cạnh tranh trên thị trường nội địa lẫn xuất khẩu. Điều này cho thấy, đa dạng sản phẩm nông sản, gia vị chế biến đã tiếp cận được thị trường và từng bước khẳng vị thế thương hiệu, mang đậm bản sắc dân tộc và văn hóa Việt trong tiêu dùng, ẩm thực.
Ghi nhận từ thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, hàng loạt sản phẩm nông sản, gia vị chế biến được tung ra thị trường và nhiều mặt hàng truyền thống được nâng cấp, cải tiến theo hướng sơ chế, chế biến sẵn. Đồng thời, từ chất lượng, tiêu chuẩn... cho đến bao bì, nhãn mác ngày càng đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng trong và ngoài nước.
Điển hình, có thể kể đến nông sản, gia vị chế biến đã đa dạng chủng loại, mẫu mã trên thị trường như muối thì không dừng lại ở muối ớt, muối tiêu mà có thêm nhiều sản phẩm mới như muối tiêu, muối ớt kết hợp nông sản như kim quất, mơ rừng... Hay có thể kể đến những sản phẩm sấy thành tinh bột, gồm: chanh, dừa, củ dền, cà pháo...
Đầu bếp Nguyễn Huỳnh Đăng Tuyên chia sẻ, ngoài yếu tố cân bằng khẩu vị cho người dùng, hương vị cho món ăn, thì gia vị còn giúp cân bằng dinh dưỡng và sức khỏe. Do đó, không chỉ người tiêu dùng, mà ngay cả đội ngũ đầu bếp và nấu ăn chuyên nghiệp cũng có nhu cầu sử dụng đa dạng gia vị chế biến hoặc bán thành phẩm để tăng tính mới lạ, độc đáo cho món ăn.
Ẩm thực cũng là văn hóa; trong đó, gia vị đóng vai trò làm nổi bật tài nguyên bản địa nên dự báo trong tương lai thị trường gia vị rất tiềm năng. Vì vậy, đơn vị sản xuất kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực nông sản, gia vị chế biến cần không ngừng nỗ lực tìm hiểu văn hóa của các nước, cũng như văn hóa ẩm thực quốc tế để tăng thêm cơ hội trở thành nhà cung cấp cho chuỗi cung ứng toàn cầu.
Với một số thị trường xuất khẩu nông sản, gia vị Việt như Nhật, Mỹ... bà Nguyễn Thị Vân Anh, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại - Dịch vụ và Sản xuất Trí Việt Phát cho hay, có yêu cầu cao về dinh dưỡng trong sản phẩm hoặc đòi hỏi sản phẩm phải mang văn hóa bản địa địa phương. Cùng với những chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng, thì đối với mặt hàng nông sản, gia vị chế biến còn phải đảm bảo tính "chuẩn vị" mới có thể tiếp cận khách hàng và duy trì đơn hàng bền vững.
Theo bà Nguyễn Thị Vân Anh, qua kinh nghiệm tiếp cận và trở thành nhà cung cấp của nhiều đối tác hoạt động trong ngành ẩm thực, nhà hàng, khách sạn... hay một số thị trường cho thấy, yêu cầu về chất lượng mặt hàng nông sản, gia vị chế biến không khác gì sản phẩm của nhiều ngành nghề, lĩnh vực khác trong nhóm ngành lương thực, thực phẩm. Chính vì vậy, đơn vị sản xuất kinh doanh tham gia thị trường nông sản, gia vị chế biến cần chuẩn hóa sản phẩm ngay từ đầu, đăng ký sở hữu trí tuệ, có chứng nhận chất lượng sản phẩm...
Chuẩn hóa mô hình sản xuất
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu và độ mở sâu rộng của nền kinh tế Việt Nam thì để cung ứng sản phẩm vào doanh nghiệp FDI hay chuỗi cung ứng của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đa quốc gia thì doanh nghiệp Việt phải thay đổi quản trị công ty, vận hành quy trình sản xuất... Doanh nghiệp bắt buộc phải xây dựng đội ngũ lao động, tích lũy nguồn lực, đầu tư công nghệ... theo tiêu chuẩn quốc tế mới có thể mở cửa chào đón khách hàng công nghiệp đến tham quan, khảo sát và tìm kiếm đơn hàng xuất nhập khẩu.
Đán.h giá thị trường nông sản, gia vị chế biến rất tiềm năng đối với ngành nông nghiệp Việt Nam, nhưng ông Ngô Đình Dũng, Giám đốc điều hành Công ty Giải pháp quản trị tổng thể (ISM) cho rằng, doanh nghiệp cần cởi mở tư duy, đổi mới sáng tạo sản phẩm để tăng sự phong phú cho ngành hàng này. Mặt khác, tất cả sản phẩm ra thị trường quốc tế thì trước hết phải có thương hiệu tại thị trường nội địa và chinh phục người tiêu dùng.
"Vấn đề quan trọng hiện nay, là doanh nghiệp có chiến lược nắm bắt được thị hiếu tiêu dùng, khai thác được tiềm năng của thị trường nông sản, gia vị chế biến để có định hướng sản phẩm phù hợp với xu hướng tiêu dùng. Điển hình, khi nói đến nông sản, gia vị thì mọi người thường nghĩ về yếu tố tài nguyên bản địa, bí truyền... nhưng trong bối cảnh hiện nay có thể mở rộng đáp ứng tiêu chuẩn về dinh dưỡng, an toàn, tiện lợi...", ông Ngô Đình Dũng cho biết thêm.
ADVERTISING
Để thương hiệu nông sản, gia vị chế biến định vị thương hiệu trên thị trường, thì gia công cũng là một trong những bước cần thiết mang lại điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt xây dựng năng lực sản xuất kinh doanh, hiểu biết thị trường, nắm bắt thị hiếu tiêu dùng... Hơn thế nữa, những doanh nghiệp nhỏ và vừa với nguồn lực chưa đủ sức triển khai nhiều chiến lược toàn diện cùng một lúc như sản xuất, tiếp thị, bán lẻ... thì có thể tham gia chuỗi cung ứng ở những mắt xích phù hợp và tận dụng được lợi thế của mình.
Nông sản, gia vị và ẩm thực Việt rất phong phú, nên sản phẩm đưa ra thị trường cần chú trọng đảm bảo tính nhận biết sản phẩm, nhận diện thương hiệu, hoặc tuỳ theo phân khúc thị trường mà chuẩn hóa quy trình sản xuất kinh doanh cơ bản cần được ưu tiên hàng đầu. Tiếp theo, doanh nghiệp có thể phát triển thêm một số dòng sản phẩm đặc thù, nâng cấp thương hiệu, hướng đến những phân khúc khách hàng cao cấp.
Bà Vũ Kim Hạnh, Chủ tịch Hội Doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao khuyến khích, các đơn vị sản xuất kinh doanh nông sản, gia vị chế biến cần "bắt tay" để xây dựng thương hiệu và làm thị trường cho những ngành hàng này, cũng như phát triển sản phẩm nông nghiệp Việt.
Nếu không xây dựng được thương hiệu thì giá cả sản phẩm và năng lực cạnh tranh của nông sản, gia vị chế biện Việt nam sẽ yếu thế trên thị trường khu vực và toàn cầu. Đồng thời, con đường mang sản phẩm xuất khẩu ra thế giới khó rộng mở cho doanh nghiệp.
Từ thực tế trong hoạt động xúc tiến thương mại, giao thương, một số doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh cũng chia sẻ kinh nghiệm, các đối tác, nhà nhập khẩu, người mua hàng... ưa chuộng phương thức trao đổi và chào hàng bằng tiêu chuẩn chất lượng trên cơ sở cung cấp quy trình, hình ảnh, thông tin... sản xuất kinh doanh sản phẩm. Do đó, những doanh nghiệp chuẩn bị và chủ động phương thức kết nối với chuẩn hóa thông tin bằng cơ sở dữ liệu, có nhiều cơ hội nhận được đơn hàng và khách hàng hơn là phương thức giao thương chỉ bằng ngôn ngữ.
Lưu ý doanh nghiệp cung cấp đủ thông tin xuất xứ khi xuất khẩu vào Ấn Độ Thị trường Ấn Độ đang mở cửa mạnh mẽ qua việc vừa ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Các tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất (UAE) và trong năm 2022 có thể ký với một số quốc gia khác như Anh, EU, Canada, cộng đồng các nước vùng vịnh. Phân loại Thanh Long Bình Thuận trước khi đi...