Tại sao có gấu Bắc Cực mà không có hổ Bắc Cực?
Câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại ẩn chứa nhiều điều thú vị về sự tiến hóa và thích nghi của các loài động vật trong môi trường khắc nghiệt của Bắc Cực.
Hổ Siberia, còn được gọi là hổ Amur và chúng là một trong những loài mèo lớn nhất hiện có và là phân loài hổ ở cực bắc hiện phân bố với số lượng hoang dã khoảng 500 con, phân bố chủ yếu ở vùng viễn đông nam nước Nga, đặc biệt là ở vùng cực đông nam nước Nga – phân bố chủ yếu ở dãy núi Sikhote-Alin và khu vực xung quanh.
Trong lịch sử Trái Đất, ngay cả trong giai hổ Siberia phát triển mạnh mẽ nhất thì khu vực định định cư của chúng về cơ bản vẫn chỉ cố định ở phía nam vĩ độ 50 độ Bắc. Đôi khi, những cá thể lang thang riêng lẻ có thể tiến xa hơn về phía bắc, nhưng chúng vẫn không bao giờ đi vào khu vực Vòng Bắc Cực.
Lý do cơ bản để hạn ché hổ Siberia di chuyển xa hơn về phía Bắc Cực chính là môi trường!
Hổ không thể tách rời môi trường rừng!
Hổ là loài sống trong rừng kể từ khi xuất hiện, chúng chưa bao giờ thích nghi thành công với các môi trường khác ngoài rừng. Chín phân loài hổ hiện đại đều đã tiến hóa để sống trong môi trường rừng mà không có ngoại lệ.
Đầu tiên, loài hổ cần môi trường rừng dày đặc để che giấu. Cỏ dài và bụi cây mọc um tùm giúp chúng tránh xa con người và các loài ăn thịt khác. Trong rừng, lớp lông đẹp mắt của hổ hòa quyện hoàn hảo với màu sắc của cây cỏ, giúp chúng săn mồi hiệu quả.
Thứ hai, hổ là loài sống đơn độc, chúng di chuyển trong một khu vực lớn phụ thuộc vào nguồn thức ăn. Mặc dù chúng không theer tuần tra khu vực lãnh thổ của mình hàng ngày, nhưng chúng đán.h dấu bằng nước tiểu, phân để thông báo về sự sở hữu đó và rừng cung cấp không gian đủ cho hành vi lãnh thổ này.
Thứ ba, rừng cung cấp nhiều loại con mồi – như hươu, lợn rừng và các loài động vật nhỏ khác. Hổ phụ thuộc vào những con này để tồn tại. Đa dạng sinh học của rừng đảm bảo nguồn thức ăn ổn định cho hổ.
Tóm lại, việc hổ sống trong rừng là cần thiết cho sự thích nghi và hành vi tự nhiên của chúng. Điều này giúp chúng trở thành kẻ săn mồi tài ba và duy trì vai trò là kẻ săn mồi hàng đầu ở hệ sinh thái này.
Vòng Bắc Cực không thiếu rừng nhưng lại không thích hợp cho hổ!
Siberia rộng lớn không thiếu rừng và tài nguyên rừng rất phong phú. Điều này dẫn đến yếu tố hạn chế thứ hai, đó là loại rừng nào phù hợp để hổ sinh tồn?
Video đang HOT
Có một vành đai rừng lá kim xanh nằm giữa vĩ độ 70 và 55 độ Bắc, bao phủ một khu vực rộng lớn. Nhìn từ không gian, nó trông giống như một vành đai xanh khổng lồ bao quanh đỉnh Trái Đất. Vành đai xanh này dài khoảng 10.000 km. Một nửa diện tích rừng này thuộc về Nga, 1/3 thuộc Canada, còn lại thuộc Alaska và Scandinavia. Khu rừng lá kim này được gọi là “Taiga” ở Nga.
Khu rừng này trông giống như một thiên đường vô tận cho sinh vật sống, nhưng thực tế nó trống rỗng và cằn cỗi chẳng kém gì một sa mạc. Có thể chỉ có một hoặc hai loài cây trong một khu rừng dài hàng trăm km và chúng phát triển cực kỳ chậm. Phải mất 60 năm để một cây thông ở khu vực này có chu vi 2,54 cm – lâu gấp 10 lần so với một cây thông sinh sống ở vùng ôn đới.
Do đó, “sa mạc xanh” không cung cấp nguồn thức ăn dồi dào nên có rất ít động vật trong khu rừng này. Trong hầu hết thời gian trong năm, khu vực này là một thế giới đầy tuyết. Vào mùa đông, hầu như không có dấu hiệu của sự sống trên khắp rừng taiga ngoại trừ một số loài chim nhỏ có thể ăn hạt thông và động vật có vú nhỏ ẩn náu dưới lớp tuyết.
Trong khi đó, hổ Siberia chủ yếu sống trong các khu rừng hỗn hợp lá kim và lá rộng ở vùng viễn đông nam nước Nga, nơi có hai loài con mồi chính của nó là hươu đỏ và lợn rừng – hai loài động vật này không phân bố ở rừng lá kim.
Nếu hổ có thể vượt qua sa mạc xanh thì vẫn không thể cạnh tranh được với gấu Bắc Cực
Hổ Siberia và gấu Bắc Cực là hai trong số những kẻ săn mồi hung dữ nhất hành tinh, sở hữu sức mạnh và kích thước phi thường. Tuy nhiên chưa từng có việc một con hổ Siberia chiến đấu hoặc thậm chí là giế.t chế.t một gấu Bắc Cực bên ngoài tự nhiên. Do đó, chúng ta có thể mang cuộc chiến giữa gấu nâu Ussuri và hổ Siberia làm ví dụ – gấu nâu Ussuri và hổ Siberia có cùng lãnh thổ.
Trọng lượng của gấu nâu Ussuri đứng thứ sáu trong họ gấu (trong khi đó gầu Bắc Cực là loài đứng đầu, con đực trưởng thành nặng từ 400 đến 800 kg, có thể lên tới 1.000 kg và cao tới 3 mét khi đứng bằng hai chân). Trong cuộc tương tác giữa gấu nâu Ussuri và hổ Siberia, chưa từng có ghi chép khoa học nào về việc một con hổ giế.t chế.t một con gấu nâu Ussuri có cùng trọng lượng hoặc nặng hơn – đối tượng mà hổ Siberia có thể giế.t chế.t chỉ có gấu nâu cái và gấu nâu non. Tuy nhiên đã từng có những ghi chép về việc gấu nâu Ussuri giế.t và cướp con mồi của hổ Siberia.
Vì vậy, hổ Siberia, một trong những phân loài hổ lớn nhất, vẫn không thể chiến thắng áp đảo khi đối mặt với gấu nâu Ussuri, loài đứng thứ sáu trong họ gấu. Theo đó có thể thấy rằng nó còn ít có khả năng thách thức các phân loài gấu nâu lớn hơn, hay thậm chí là loài gấu Bắc cực.
Những loài động vật có khả năng đổi sang màu trắng vào mùa đông
Bắc Cực được biết đến là nơi vô cùng khắc nghiệt với khối lượng lớn băng tuyết bao phủ quanh năm, tuy nhiên vẫn có những loài động vật với vẻ ngoài tuyệt đẹp sinh sống tại đây.
Cáo tuyết có tên gọi khoa học là Vulpes lagopus (Cáo Bắc Cực) có thân hình nhỏ bé với chiều dài chỉ khoảng 46 - 68cm, và thích nghi rất tốt trong môi trường lạnh giá.
Vào mùa hè, những con cáo tuyết khoác lên mình bộ lông nâu thế nhưng đến mùa đông thì một điều diệu kì xảy ra khi toàn bộ chiếc áo của chúc được chuyển sang màu trắng. Việc thay đổi màu sắc của lông này có tác dụng lớn với chúng trong việc ngụy trang để săn bắt con mồi.
Theo các chuyên gia về động vật, bộ lông của gấu Bắc Cực không có màu. Chúng có bộ lông trong suốt và rỗng ở bên trong. Điều này xuất phát từ chính môi trường sống khắc nghiệt của chúng, bộ lông trong suốt, khi ánh sáng chiếu qua và chuyển đến da của chúng, giúp chúng sưởi ấm bằng ánh sáng mặt trời tốt hơn.
Ước tính về số lượng gấu Bắc Cực, loài động vật này có một quần thể đông đảo lên tới 16.000 - 35.000 con. Về độ phân bổ thì các nhà nghiên cứu công bố về số lượng lớn xuất hiện chủ yếu ở lãnh thổ 5 quốc gia khác nhau bao gồm: phía bắc và tây bắc Alaska, Canada, Greenland, Svalbard (Na Uy) và Liên bang nga.
Cá voi trắng có tên khoa học là (Delphinapterus leucas) là loài cá nhỏ nhất trong các loài cá voi với kích thước từ 4m - 6m và nặng tới 1,3 tấn, chúng thuộc loài động vật hiếm nhất hành tinh và ít ai có thể nhìn thấy chúng. Chúng đặc biệt khi khoác trên mình một màu trắng tinh và vô cùng thông minh.
Dòng cá voi này có lớp sắc thể trên da màu trắng, khác biệt hoàn toàn so với những dòng cá voi khác. Cá voi trắng không chỉ có màu sắc đặc biệt mà chúng còn vô cùng thông minh. Về độ phân bổ thì chúng sống chủ yếu quanh vùng biển Bắc Cực, người ta thường phát hiện thấy chúng ở khu vực bờ biển của Alaska, Canada, Greenland, và Nga.
Thỏ Bắc Cực (Lepus arcticus) có đặc điểm giống cáo tuyết khi chúng có cơ chế tự đổi màu lông xám vào mùa hè và trắng vào mùa đông cũng bởi lẽ chúng luôn là kẻ bị săn trong chuỗi thức ăn. Bản năng sống của chúng khi có khả năng tích tụ dự trữ mỡ vào mùa hè. Mùa đông đến, ngoài bộ lông dày, thỏ Bắc Cực thường đào hang và chui xuống đất để giữ ấm cho cơ thể.
Thỏ Bắc cực chịu rét được nhờ một bộ lông dày và thường đào lỗ dưới mặt đất hoặc tuyết để giữ ấm và ngủ. Thỏ Bắc Cực trông giống như thỏ rừng nhưng tai ngắn và có thể đứng lên cao hơn, chúng có thể sống được ở những nơi lạnh giá không giống như thỏ rừng.
Cú tuyết là một loài cú lớn có chiều dài 52 - 71cm và cân nặng từ 1,6 - 3,0 kg, sống khu vực xung quanh vòng cực Bắc. Với loài cú có bộ lông màu trắng toát giúp chúng lẩn trốn trong việc săn mồi.
Là một loài chim săn mồi, khẩu phần ăn của cú tuyết chủ yếu là những con chuột Lemming (một động vật gặm nhấm nhỏ sống ở vùng khí hậu lạnh giá). Cú tuyết là loài chim rất nhanh nhạy và mạnh khỏe, chúng bay rất nhanh và tốc độ này có thể làm ngã một người trưởng thành nếu chẳng may va chạm với nó.
Linh miêu Canada sinh sống ở vùng cực Bắc là loài linh miêu lớn thứ 2 trên thế giới (sau linh miêu Á - Âu) thuộc chi linh miêu trong họ nhà mèo. Nhờ vào những chiếc chân dài, chúng có thể dễ dàng di chuyển trong khu vực tuyết phủ dày để săn mồi.
Cũng giống như cáo Bắc Cực, linh miêu Canada cũng có thể thay đổi màu sắc lông (màu trắng vào mùa đông, nâu vào mùa hè) để dễ dàng ngụy trang khi đi săn mồi. Loài linh miêu tuyết này chủ yếu ăn thỏ rừng tuyết, những chú thỏ rất nhanh nhẹn nhưng những con linh miêu còn nhanh hơn.
Chiếc sừng của cừu Dall mọc dài ra và uốn thành những vòng tròn được gọi là annuli, tuổ.i của cừu Dall có thể được xác định bằng cách dựa vào các annuli. Điều này giống như số vòng vân gỗ bên trong của cây. Phải mất từ bảy đến tám năm để một con cừu Dall phát triển đầy đủ một cặp annuli.
Kỹ năng leo núi thuần thục cùng lớp lông dày, trắng muốt cho phép cừu Dall tồn tại trong môi trường sống khắc nghiệt trên dãy núi Alaska. Thức ăn chính của chúng là cỏ. Giống như bò, chúng thích gặm cỏ hơn là tìm kiếm thức ăn từ các loài thực vật khác.
Một phân loài tuần lộc có nguồn gốc từ Bắc Cực của Canada và Greenland, tuần lộc Peary (Rangifer tarandus lêyi) sẽ thay đổi bộ lông mùa hè màu bạc của chúng lấy bộ lông màu trắng khi mùa đông sắp đến. Chúng là phân loài duy nhất của tuần lộc trải qua sự thay đổi như vậy. Tuần lộc Peary là phân loài nhỏ nhất của tuần lộc và do sự khác biệt về hình thái nên từng được coi là một loài riêng biệt.
Những loài động vật có trái tim kỳ lạ nhất thế giới Do kích thước cơ thể cùng những đặc điểm khác nhau nên trái tim của mỗi loài động vật cũng đa dạng về kích thước lẫn đặc trưng. Loài giun thực tế không có tim. Chúng có năm phần giả bọc quanh thực quản của nó. Những bộ phận giả này không bơm má.u, mà chúng ép các mạch má.u để giúp lưu...