Người khỏe mạnh mang vi khuẩn bạch hầu có thể kéo dài đến 4 tuần
Từ các ca mắc bạch hầu không rõ nguồn lây, chuyên gia nhận định ổ chứa vi khuẩn có thể từ người khỏe mạnh không biểu hiện triệu chứng, âm thầm lây lan dịch trong cộng đồng.
Vừa qua, UBND tỉnh Thanh Hóa công bố dịch bệnh bạch hầu trên địa bàn thị trấn Mường Lát của huyện biên giới Mường Lát. Trước đó, ngành y tế ghi nhận ca bệnh bạch hầu là thai phụ 17 tuổi, mang thai tháng thứ 8 chưa rõ nguồn lây. Sau đó, hai người thân 74 tuổi và 10 tuổi của thai phụ xác định dương tính với bạch hầu. Đáng chú ý, cả hai không có triệu chứng. Tính từ đầu năm đến ngày 14/8, cả nước đã ghi nhận 9 ca mắc bạch hầu, trong đó có 1 ca tử vong.
Khó nhận biết ai mang vi khuẩn bạch hầu
Nhận định về nguồn lây bạch hầu trong cộng đồng, bác sĩ Bạch Thị Chính, Giám đốc Y khoa Hệ thống tiêm chủng VNVC cho biết, bạch hầu lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc với dịch tiết niêm mạc mũi, họng từ người bệnh hoặc người lành mang trùng. Thời gian mầm bệnh tồn tại ở người lành có thể kéo dài đến 3, 4 tuần nhưng không biểu hiện triệu chứng, điều này khiến bệnh dễ lây lan rộng trong cộng đồng, lây nhiễm cho nhóm có sức đề kháng kém như trẻ em, phụ nữ có thai, người cao tuổi, người có bệnh lý nền.
“Không phải tất cả người mang vi khuẩn bạch hầu đều có triệu chứng, vì vậy rất khó để nhận biết ai mang mầm bệnh trong cộng đồng để cách ly và điều trị. Đó là lý do mầm bệnh vẫn luôn tiềm ẩn và chực chờ cơ hội bùng phát, nhất là trong điều kiện giao lưu, đi lại giữa các vùng diễn ra thuận lợi như hiện nay và trong hai năm dịch Covid-19 nhiều trẻ em và người lớn bỏ quên tiêm chủng vắc xin bạch hầu”, BS Chính lo ngại.
Ngoài ra, theo BS Chính, bệnh bạch hầu còn có thể lây do tiếp xúc với những đồ vật dính chất bài tiết chứa vi khuẩn. Ở môi trường bên ngoài, vi khuẩn có thể tồn tại vài tuần lễ, bám vào các đồ chơi, vật dụng, vải vóc. Một số bằng chứng chỉ ra mầm bệnh có thể sống trong sữa tươi và nước, lây khi ăn uống. Do đó, nhiều trường hợp mắc bệnh rất khó xác định nguồn lây.
Bạch hầu và các bệnh đường hô hấp có cùng biểu hiện đau họng. Ảnh minh họa: Freepik
Biến chứng nguy hiểm của bạch hầu
Bác sĩ Chính cho biết, bạch hầu là bệnh truyền nhiễm nhóm B, nguy hiểm, có khả năng lây truyền nhanh và gây tử vong cao, buộc phải cách ly, nghiêm cấm hành vi che giấu, không khai báo. Theo CDC Mỹ, tỷ lệ tử vong của bệnh từ 5-10%, có thể lên đến 20% ở trẻ em dưới 5 tuổi và người lớn trên 40 tuổi.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể từ 2-5 ngày, vi khuẩn bạch hầu sẽ tiết ra ngoại độc tố gây ra các triệu chứng tại chỗ và toàn thân. Trong đó, thể bệnh thường gặp nhất là bạch hầu họng với tỷ lệ 70% người mắc. Ở thể này, vi khuẩn gây ra giả mạc bám chắc vào một bên hoặc hai bên amidan, sưng đau hạch góc hàm. Giả mạc phát triển quá mức sẽ lan rộng lấp đường hô hấp, gây ngạt thở tử vong.
Ngoài gây giả mạc tại chỗ, viêm cơ tim là biến chứng phổ biến nhất của bệnh. Khoảng 30% bệnh nhân bạch hầu thể nặng có biến chứng suy tim và tử vong. Viêm cơ tim xuất hiện sớm trong những ngày đầu của bệnh, tỷ lệ tử vong có thể lên đến 80%.
Video đang HOT
Độc tố bạch hầu còn gây viêm phổi, suy thận, liệt mềm các chi, liệt màn khẩu cái (cơ vòm miệng), liệt cơ hoành và cơ liên sườn… Trong đó, liệt cơ hoành và cơ liên sườn có thể dẫn đến viêm phổi, suy hô hấp và tử vong.
Thai phụ nhiễm bạch hầu hô hấp có tỷ lệ tử vong cao, lên đến 50% nếu không được truyền huyết thanh kháng độc tố bạch hầu hoặc thai lưu, sinh non và lây cho em bé trong quá trình chăm sóc.
Bệnh bạch hầu dễ lây cho đối tượng nào?
BS Chính cho biết kể từ khi vắc xin bạch hầu đưa vào chương trình Tiêm chủng mở rộng từ năm 1981, Việt Nam ghi nhận số ca bệnh giảm rõ rệt, từ gần 3.500 ca năm 1983 xuống còn 10-50 ca ở giai đoạn 2004-2019. Tuy nhiên, 5 năm trở lại đây, bệnh đang có dấu hiệu gia tăng trở lại, chủ yếu ở người chưa được tiêm nhắc hoặc không rõ tiền sử tiêm chủng. Điển hình năm 2023, cả nước ghi nhận 57 ca mắc, trong đó có 7 ca tử vong.
Theo BS Chính, bất cứ ai cũng có thể nhiễm bạch hầu. Các nhóm đối tượng dễ mắc bệnh hơn là trẻ em chưa tiêm vắc xin; thanh thiếu niên và người lớn chưa tiêm vắc xin nhắc lại; người sống ở vùng dịch tễ; người đi du lịch đến các vùng dịch tễ nhưng chưa tiêm phòng vắc xin; người mắc bệnh lý nền gây suy giảm hệ miễn dịch; người cao tuổi; phụ nữ đang mang thai; người sống trong môi trường không vệ sinh hoặc quá đông đúc, chật hẹp.
Người lớn tiêm vắc xin bạch hầu – ho gà – uốn ván tại VNVC. Ảnh: Hoàng Hà
Tiêm chủng đầy đủ vắc xin bạch hầu có hiệu quả bảo vệ trên 97%. Miễn dịch từ vắc xin giảm dần theo thời gian, do đó nếu không tiêm nhắc lại vẫn có thể mắc bệnh.
BS Chính lưu ý sau khi hoàn tất lịch tiêm chủng 4 mũi cơ bản cho trẻ dưới 2 tuổi (vào lúc 2, 3, 4 và 16-18 tháng tuổi), trẻ cần bổ sung một mũi vắc xin ở các mốc 4-7 tuổi, 9-15 tuổi, sau đó tiêm nhắc mỗi 10 năm/lần. Để phòng bệnh cho trẻ chưa đến tuổi tiêm ngừa, phụ nữ mang thai cần bổ sung một mũi phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván vào 3 tháng giữa hoặc 3 tháng cuối thai kỳ. Người lớn chưa rõ lịch sử tiêm chủng hoặc đã lâu chưa tiêm vắc xin nhắc lại cần đến cơ sở tiêm chủng để được bác sĩ tư vấn chủng ngừa kịp thời.
Theo BS. Chính, Hệ thống tiêm chủng VNVC với gần 200 trung tâm tiêm chủng trên cả nước hiện có đầy đủ vắc xin phòng bệnh bạch hầu cho cả trẻ em và người lớn gồm vắc xin 6 trong 1 Hexaxim (Pháp)/ Infanrix Hexa (Bỉ); vắc xin 4 trong 1 Tetraxim (Pháp) phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt; vắc xin 3 trong 1 Adacel/Boostrix phòng bạch hầu, ho gà, uốn ván; vắc xin 2 trong 1 Td phòng bạch hầu hấp phụ, uốn ván. Tất cả vắc xin được bảo quản ở hệ thống kho lạnh đạt chuẩn GSP, đảm bảo quy trình tiêm chủng an toàn, chất lượng với giá bình ổn, nhiều ưu đãi.
“Hiện tại, các trẻ sắp quay trở lại trường học. Môi trường tiếp xúc đông người khiến trẻ dễ mắc các bệnh như ho gà, bạch hầu, cúm, thủy đậu… nếu tiếp xúc mầm bệnh. Các phụ huynh nên rà soát trẻ cần tiêm nhắc các loại vắc xin gì để bảo vệ kịp thời cho con”, BS. Chính lưu ý.
Ho gà tăng cao, khuyến cáo biện pháp phòng bệnh
Để chủ động phòng bệnh cho trẻ nhỏ trước khi bước vào độ tuổi tiêm chủng, các bà mẹ có thể tiêm vắc-xin phối hợp phòng bệnh uốn ván - bạch hầu - ho gà (Tdap) trong thời gian mang thai.
Cùng thời điểm này năm ngoái, Hà Nội chưa ghi nhận bất kỳ ca mắc ho gà nào, nhưng năm nay, số trẻ mắc đã vượt qua con số 100. Tình hình trẻ mắc ho gà cũng tăng tại nhiều địa phương khác.
Để chủ động phòng bệnh cho trẻ nhỏ trước khi bước vào độ tuổi tiêm chủng, các bà mẹ có thể tiêm vắc-xin phối hợp phòng bệnh uốn ván - bạch hầu - ho gà (Tdap) trong thời gian mang thai.
Theo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) Hà Nội, từ đầu năm 2024 đến nay đã ghi nhận 116 ca ho gà. Đây là con số gia tăng bất thường bởi cùng kỳ 2023 không ghi nhận ca bệnh.
Các ca bệnh hiện được ghi nhận rải rác, tập trung chủ yếu ở nhóm trẻ nhỏ chưa đến tuổi tiêm vắc-xin hoặc chưa được tiêm chủng đầy đủ các mũi vắc-xin có thành phần ho gà.
Theo bác sĩ Nguyễn Văn Lâm, Giám đốc Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương, ho gà có biểu hiện và triệu chứng dễ nhầm với các bệnh hô hấp khác, đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Đáng lo ngại, đây là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có khả năng lây lan cao, thời gian ủ bệnh dài.
Một số biến chứng nguy hiểm có thể gặp phải trong trường hợp trẻ mắc bệnh ho gà như viêm phổi nặng, là biến chứng hô hấp hay gặp, nhất là ở trẻ sơ sinh và trẻ suy dinh dưỡng; biến chứng viêm não với tỷ lệ tử vong cao...
Trẻ mắc ho gà còn có thể có các biến chứng như: Lồng ruột, thoát vị, sa trực tràng; trường hợp nặng có thể gặp vỡ phế nang, tràn khí trung thất hoặc tràn khí màng phổi; xuất huyết võng mạc, kết mạc mắt, rối loạn nước điện giải, bội nhiễm các vi khuẩn khác... Vì vậy, việc phát hiện sớm các dấu hiệu của bệnh để điều trị là rất quan trọng.
Các triệu chứng ho gà thường xuất hiện trong vòng 7-10 ngày sau khi nhiễm bệnh. Đa phần trường hợp bệnh nặng tập trung ở bé dưới 2 tuổi, đặc biệt dưới 12 tháng tuổi. Cần lưu ý, người lớn bị ho gà thường nhẹ nên dễ chủ quan và trở thành nguồn lây nhiễm chính cho trẻ nhỏ trong nhà.
Trẻ em dễ bị bệnh ho gà tấn công, đặc biệt nhóm dưới 1 tuổi bởi hệ miễn dịch chưa hoàn thiện nên nguy cơ tử vong cao hơn.
Ở nhóm chưa đủ tuổi tiêm chủng (dưới 2 tháng), bé phụ thuộc vào kháng thể từ mẹ. Trẻ sinh ra từ người mẹ được tiêm phòng giúp giảm 91% nguy cơ mắc ho gà trong những tháng đầu đời so với trẻ có mẹ không chủng ngừa.
Để dự phòng ho gà, theo bác sĩ Nguyễn Tuấn Hải, Hệ thống tiêm chủng Safpo/Potec cho hay, tiêm vắc-xin là quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe cho trẻ.
Để chủ động phòng chống, cha mẹ cần lưu ý đưa trẻ đi tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh ho gà đầy đủ, đúng lịch: Mũi thứ 1: Tiêm khi trẻ 2 tháng tuổi. Mũi thứ 2: Sau mũi thứ nhất 1 tháng. Mũi thứ 3: Sau mũi thứ hai 1 tháng. Mũi thứ 4: Khi trẻ đủ 18 tháng tuổi.
Đối với trẻ khi sinh ra từ các bà mẹ không có kháng thể phòng bệnh ho gà có nguy cơ mắc bệnh cao hơn so với trẻ nhận được kháng thể từ mẹ.
Để chủ động phòng bệnh cho trẻ nhỏ trước khi bước vào độ tuổi tiêm chủng, các bà mẹ có thể tiêm vắc-xin phối hợp phòng bệnh uốn ván - bạch hầu - ho gà (Tdap) trong thời gian mang thai.
Song song với đó, cần thực hiện tốt các biện pháp khác như thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, che miệng khi ho hoặc hắt hơi; giữ vệ sinh thân thể, mũi, họng cho trẻ hàng ngày; đảm bảo nhà ở, nhà trẻ, lớp học thông thoáng, sạch sẽ và có đủ ánh sáng; hạn chế để trẻ đến những nơi đông người, tránh tiếp xúc với những người bị bệnh đường hô hấp, đặc biệt là người bệnh ho gà.
Các bậc phụ huynh cần phân biệt ho gà và ho thông thường để đưa trẻ đến bệnh viện kịp thời. Khi nghi ngờ mắc bệnh ho gà hoặc có bất kỳ dấu hiệu nào của bệnh như có nhiều cơn ho, trong cơn ho có đỏ hoặc tím mặt, thời gian mỗi cơn ho kéo dài; ăn kém, nôn chớ nhiều; ngủ ít; thở nhanh/khó thở, cần đưa trẻ đến bệnh viện để được thăm khám, xác định căn nguyên và hỗ trợ điều trị sớm.
Với trẻ đã mắc ho gà, theo bác sĩ CK1 Bùi Thu Phương, Khoa Nhi, Bệnh viện Trung ương quân đội 108, khi mắc ho gà, trẻ cần được nghỉ ngơi trong phòng yên tĩnh, ít ánh sáng, thoải mái, tránh lo lắng, tránh môi trường có các yếu tố nguy cơ như khói thuốc lá, bụi tiếng ồn, nhiều chất kích thích.
Chia nhỏ bữa ăn cho trẻ, tránh ăn quá nhiều bữa trong ngày. Cần theo dõi sát cơn ho của trẻ, cung cấp đủ oxy và máy hút khi cần thiết
Kháng sinh: Cần cho sớm. Chỉ định khi nghi ngờ hoặc chẩn đoán xác định mắc ho gà cho trẻ dưới 1 tháng tuổi trong vòng 6 tuần từ khi khởi phát cơn ho, trẻ trên 1 tuổi thì trong vòng 3 tuần từ khi khởi phát cơn ho.
Có thể sử dụng kháng sinh Erythromycin, clarithromycin hoặc Azithromycin với trẻ> 1 tháng tuổi. Trẻ sơ sinh dưới 1 tháng chỉ nên dùng Azithromycin.
Một số điều trị khác: Corticoid thường không được khuyến cáo; IVIG chung không chứa kháng thể đặc hiệu không được chỉ định trong bệnh ho gà...
Điều trị suy hô hấp: Bệnh nhân cần được thở oxy khi có các biểu hiện suy hô hấp như thở nhanh, gắng sức, tím tái, SpO2 dưới 92 % khi thở khí trời. Đặt ống nội khí quản và hỗ trợ hô hấp sớm khi có các dấu hiệu suy hô hấp nặng và/ hoặc có dấu hiệu suy tuần hoàn.
Điều trị tăng áp lực động mạch phổi, thay máu hoặc màng trao đổi oxy ngoài cơ thể( ECMO): Chỉ định và thực hiện tại các cơ sở y tế chuyên sâu có điều kiện chăm sóc và theo dõi sát cho trẻ.
Cách ly: Trẻ nhập viện cần được thực hiện các biện pháp dự phòng chuẩn, các biện pháp dự phòng lây qua đường hô hấp được khuyến cáo ít nhất 5 ngày sau khi bắt đầu điều trị kháng sinh. Nên cách ly trẻ 3-4 tuần để giảm thiểu nguy cơ lây bệnh, giảm các kích thích cho trẻ và tránh các mối lo lắng bị lây bệnh cho các thành viên trong gia đình.
Ngoài ra cần dự phòng sau phơi nhiễm bằng kháng sinh cho những người trong gia đình tiếp xúc gần với trẻ và những người chăm sóc trẻ ở bất kỳ tuổi nào, tiền sử tiêm phòng và có triệu chứng hay không. Tiêm phòng cho những người tiếp xúc gần cũng nên được xem xét.
Ngăn dịch bệnh bùng phát bằng vắc-xin Bệnh bạch hầu đang lây lan có thể được phòng ngừa bằng vắc-xin. Do vậy, người dân không quá hoang mang hay lo lắng, mà cần biết sử dụng công cụ này để bảo vệ sức khỏe bản thân và gia đình. Tiêm vắc-xin phòng bệnh là biện pháp hiệu quả nhất nhằm ngăn ngừa dịch bệnh bùng phát - Ảnh: D.N Không...