Nếu không muốn hỏng dạ dày, nên ăn rau cùng mì tôm
Ăn nhiều mì tôm không hề tốt nhưng nếu biết cách ăn, đó lại trở thành món ăn khó quên nhất.
Bận rộn, không có thời gian cắm cơm, rất nhiều người trong chúng ta thực hiện món ăn 3 phút thần thánh – mì ăn liền ( mì tôm ).
Không phủ nhận, ăn nhiều mì tôm không tốt, nếu bạn ăn mỳ tươi sau thời gian này đã được tiêu hóa, nhưng với mỳ tôm vẫn còn nguyên sợi trong dạ dày. Điều đó chứng tỏ món ăn thông dụng này rất nguy hiểm với cơ thể.
Trong một thí nghiệm đặc biệt của tiến sỹ Braden Kuo , công tác tại bệnh viện cộng đồng Massachsetts (Mỹ) cho biết, việc tiêu thụ mỳ tôm trên 3 lần mỗi tuần có nguy cơ cao mắc bệnh tiểu đường và tim mạch. Nó còn được cho là một đối thủ “khó xơi” đối với hệ tiêu hóa bởi sau nhiều giờ vào cơ thể, những sợi mì này không dễ gì phân giải.
Tuy nhiên, chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát được ảnh hưởng khi chế biến đúng cách.
Không sử dụng gói dầu gia vị
Bởi mì tôm được làm theo cách chiên nên bước đầu tiên chúng ta cần làm là trần qua nước sôi để trôi bớt lớp mỡ ban đầu.
Và dĩ nhiên hãy vứt bỏ luôn gói dầu giàu chất béo không tốt cho cơ thể này.
Thêm rau xanh
Việc bổ sung nhiều rau xanh vào món mỳ ăn liền sẽ làm giảm tối đa lượng chất béo thừa.
Việc thêm rau vào bữa ăn sẽ làm cho lượng lớn các chất béo được cuốn theo rau ra ngoài cơ thể. Từ đó sẽ hạn chế được thấp nhất những tác hại chính mà vắt mỳ gây ra.
Ngoài ra, để bữa ăn có thêm dinh dưỡng, mỗi vắt mỳ nên bổ sung từ 25-30gr chất đạm như thịt bò, thịt lợn hoặc tôm…
Tuyệt đối không ăn “mỳ úp”
Thay vì tiết kiệm thời gian bằng cách cho vắt mỳ vào tô, đổ nước nóng, đậy nắp đợi chín, bác sĩ Lâm khuyên nên đun sôi, đổ ra để ráo; tiếp tục nấu nước lần 2 và cho mỳ đã chín sơ vào chế biến. Bằng cách này, lượng chất béo và một số chất dinh dưỡng không tốt đã bị biến đổi trong vắt mì sẽ giảm được phần nào. Đối với rau và thịt, cần nấu chín trước khi thêm vào mỳ.
Ăn mì tôm quá thường xuyên
Cái gì nhiều cũng không tốt. Ăn mì tôm thường xuyên, đặc biệt là ăn thay bữa chính có thể gây mất cân bằng dinh dưỡng , gây nóng trong, nổi mụn .
Bạn không nên ăn mì tôm quá 2 lần/tuần và nên ăn kèm rau xanh , thịt, trứng để cân bằng dinh dưỡng. Uống nhiều nước, ăn thêm trái cây để thanh nhiệt cho cơ thể, hạn chế nóng trong, nổi mụn .
Bên cạnh đó, việc chú trọng tới hàm lượng muối trên nhãn của mì tôm cũng là điều vô cùng quan trọng. Nhờ đó, người dùng có thể dễ dàng kiểm soát lượng gia vị. Việc chấm hay bổ sung gia vị mặn khác khi ăn mì tôm là hành động không được khuyến khích.
Nghiên cứu thực hiện trên hơn 10.700 người ở Hàn Quốc cho thấy ăn nhiều mì ăn liền có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim, đặc biệt là phụ nữ.
Phụ nữ ăn nhiều mì ăn liền cũng dễ bị hội chứng chuyển hóa hơn. Đây là tình trạng mà cùng lúc cơ thể xuất hiện nhiều yếu tố có nguy cơ gây bệnh như béo phì, huyết áp cao, cholesterol cao, đường huyết bất ổn. Tất cả đều làm tăng nguy cơ bị tim mạch, đột quỵ và tiểu đường.
Hàm lượng natri cao trong mì ăn liền không có lợi cho sức khỏe là điều đã biết từ lâu. Nhưng thủ phạm chính gây hại lại là mì. Trong một nghiên cứu khác của đại học Harvard (Mỹ), các nhà khoa học đã phát hiện những kết quả đáng lo ngại sau khi kiểm tra quá trình tiêu hóa mì ăn liền.
Chất bảo quản hay còn gọi là TBHQ (t-butylated hydroxy quinone), là chất chống ô xy hóa hòa tan trong dầu mỡ. Chúng giúp kéo dài tuổi thọ thực phẩm và làm khó tiêu hơn bình thường. Không ít loại thực phẩm hiện nay có dùng chất bảo quản – trong đó có mì tôm.
Hiểu sao cho đúng ‘Món này nóng trong người lắm’?
Về quê, háo hức giữa muôn vàn món ăn mới lạ, các loại trái cây ngon lành, nhưng hễ chạm vào món nào là cũng có người lớn "nhắc chừng": ăn ít thôi món đó nóng lắm. Sao lại có món ăn nóng?
"Món ăn nóng", "món ăn lạnh" vẫn dựa chủ yếu trên kinh nghiệm cá nhân
Và hiểu sao cho đúng về "món nóng" cùng với những lời nhắc nhở cửa miệng mà đại đa số người Việt đều nằm lòng?
Có "món ăn nóng" thật không?
"Món ăn nóng", chắc hẳn đây là cụm từ quá đỗi quen thuộc với mỗi chúng ta. Trước hết, cách gọi "món nóng", "món mát" của người Việt Nam không phụ thuộc vào... nhiệt độ món ăn.
Cùng là một chén chè, cùng ướp đá mát lạnh như nhau, nhưng bạn sẽ có lúc than trời (không sao phân biệt nổi) vì sao chè hạt sen được khẳng định là ăn vào rất "mát", trong khi ly chè vải, chè thái với từng múi sầu riêng thơm phức ngon lành lại bị kêu là "nóng"?
Hay vì sao tô cháo lươn, cháo ếch nóng hổi thì được gọi là "hàn", ăn dễ "lạnh bụng" nên cần bỏ thêm miếng gừng, miếng tiêu vào cho "nóng" lên?
Cho đến nay, câu chuyện phân biệt "món ăn nóng", "món ăn lạnh" vẫn dựa chủ yếu trên kinh nghiệm cá nhân, mang tính truyền miệng là chính, chứ chưa thật sự được kiểm chứng rõ ràng.
Sở dĩ, khái niệm món ăn nóng, mát được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác vì nó bắt nguồn từ y học cổ truyền. Theo y học cổ truyền, thực phẩm sẽ được chia thành 4 tính chất hàn, lương, ôn, nhiệt (nghĩa là lạnh, mát, ấm, nóng).
Về cơ bản, những thực phẩm có tính nhiệt được cho là các loại thực phẩm ăn vào tạo cảm giác nóng và khô như các loại thịt đỏ, các loại gia vị (gừng, tỏi, ớt); các loại trái cây có vị ngọt (đào, nhãn, vải).
Trong khi đó, những thực phẩm có tính hàn lại là các thực phẩm tạo cảm giác mát và cung cấp độ ẩm cho cơ thể, ví dụ như các loại rau xanh, hải sản, đồ tanh (ếch, ốc).
Mặc dù có khái niệm thực phẩm hàn và nhiệt, nhưng cũng theo y học cổ truyền, thực phẩm có tính nhiệt chưa hẳn là nguyên nhân gây nóng. Vì cơ thể mỗi người lại có thể hàn và thể nhiệt nên có người ăn thực phẩm hay món ăn nào đó thấy gây ra nóng, còn người khác lại thấy bình thường. Thế nên mới có chuyện nhiều người ăn mận, nhãn, sầu riêng... thì cơ thể bình thường, với người khác lại có phản ứng ngược lại.
Thực phẩm có tính nhiệt chưa hẳn là nguyên nhân gây nóng
Đó là trong y học cổ truyền, còn xét theo y học hiện đại thì không có khái niệm thực phẩm hay món ăn nóng. Thực phẩm trong y học hiện đại được phân chia dựa trên các thành phần chất dinh dưỡng như: chất bột đường (carbohydrate), chất đạm (protein), chất béo (lipid), vitamin và khoáng chất. Theo đó, chế độ ăn hằng ngày cần đảm bảo đầy đủ các loại thực phẩm cung cấp 4 nhóm chất dinh dưỡng trên, theo tỷ lệ hợp lý, phù hợp với thể trạng và tình trạng hoạt động của cơ thể.
Có cần kiêng khem "món nóng" theo quan niệm dân gian?
Trên thực tế, y học cổ truyền không "cấm kỵ" cũng như so sánh so sánh giữa thực phẩm nhiệt - hàn thì cái nào tốt hơn. Do đó, quan niệm thực phẩm tính nhiệt không tốt cho sức khỏe là một cách hiểu chưa đúng, nhưng lại được truyền miệng bấy lâu nay trong dân gian.
Sử dụng thực phẩm hợp lý theo y học cổ truyền là phải có sự hài hòa giữa hàn và nhiệt, sử dụng thực phẩm phù hợp với cơ địa của từng người Thực phẩm có tính nóng phù hợp với những người có cơ địa hàn và ngược lại, thực phẩm có tính hàn phù hợp với người có cơ địa nhiệt. Thực phẩm có tính ôn phù hợp với tất cả mọi người.
Trong chế biến thức ăn, có thể điều hòa hàn - nhiệt giúp cân bằng theo 2 hướng chính sau:
- Phối hợp những thực phẩm mát với những thực phẩm nóng: Ví dụ kho cá (sống dưới nước có tính hàn) với thịt (sống trên cạn được cho là có tính nhiệt), ăn ốc ngao (tính hàn) thường có nước chấm gừng ớt (có tính nhiệt).
- Đối với một loại thực phẩm, nên tận dụng hết mọi phần ăn được. Ví dụ, rau thì dùng cả thân, lá, rễ, hoa (mướp dùng trái, hoa, lá non; khoai lang ăn cả củ lẫn lá...).
Tuy nhiên, mọi thứ đều mang tính chất tương đối nên tốt nhất vẫn là thực hiện chế độ ăn uống đa dạng, kết hợp nhiều loại thực phẩm. Cân bằng hàn - nhiệt đúng cách sẽ giúp tăng sức đề kháng và cơ thể khỏe mạnh.
Ở khía cạnh y học hiện đạị, không có khái niệm thực phẩm hay món ăn nóng cũng như bệnh lý "nóng trong người", nên bạn không cần phải kiêng khem lo sợ để bó buộc khẩu vị của mình.
Điều quan trọng là phải thực hiện chế độ dinh dưỡng khoa học, hợp lý, đảm bảo cung cấp cho cơ thể đủ thực phẩm ở 4 nhóm như trên, ăn đa dạng các loại thực phẩm. Song song đó, chế độ ăn nên tăng cường thêm rau xanh, trái cây tươi, đầy đủ nước.
Đây được coi là chìa khóa cho một cuộc sống khỏe mạnh cũng như giúp cơ thể không gặp phải các triệu chứng thường được xem như là "nóng trong" với ợ nóng, nổi mụn, nhiệt miệng hay cáu gắt...
Theo các chuyên gia, nếu gặp phải các triệu chứng trên bạn cần xem lại chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt hoặc sử dụng thuốc. Tốt nhất là nên ghi chép lại triệu chứng, kèm các yếu tố trên và đến gặp bác sỹ để được tư vấn phù hợp.
Ăn 4 loại thực phẩm này khi đói chẳng khác nào bạn đang trực tiếp "uống dầu mỡ", bất ngờ nhất là số 4 Theo các chuyên gia dinh dưỡng, bên cạnh việc chú ý ăn uống đủ chất, bạn cần tránh ăn, uống 4 loại thực phẩm sau, bởi chúng được ví như việc trực tiếp uống dầu mỡ, là tác nhân trực tiếp gây bụng béo, đùi to. Bánh ngọt và đồ uống có đường Nhiều người có thói quen khi đói sẽ tìm đến...