Nâng tầm giáo dục di sản
Giáo dục di sản đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc lan tỏa các giá trị văn hóa, lịch sử của dân tộc . Tuy nhiên, việc giáo dục bằng những cách làm xưa cũ, khô khan đang khiến việc lan tỏa các giá trị di sản gặp nhiều hạn chế.
Một hoạt động giáo dục di sản tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Ảnh: Quang Vinh.
Thay đổi cách tiếp cận
Tại các trường việc giáo dục di sản được giảng dạy chủ yếu dựa trên các bài học cụ thể, các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hay tổ chức học sinh học trải nghiệm tại di sản. Thông qua hình thức này không thể phủ nhận năng lực của nhiều giáo viên đã được nâng cao, thể hiện ở khả năng thiết kế tiến trình dạy học và tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh một cách phong phú và sinh động.
Các bài học được xây dựng phù hợp với việc sử dụng di sản trong dạy học , đảm bảo dựa theo chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông. Nhiều giáo viên đã chủ động sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, băng đĩa về các di sản có liên quan đến bài học để phục vụ cho tổ chức các hoạt động của học sinh.
Ngoài ra, một số giáo viên còn xây dựng hệ thống tư liệu về di sản cho chủ đề dạy học nhằm hỗ trợ hoạt động tìm tòi, khám phá của học sinh… Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực thì thực tế hiện nay với học sinh nói riêng và thế hệ trẻ nói chung việc tiếp các di sản còn khá hời hợt, chứ chưa nói đến việc tạo ra được niềm đam mê. Việc tham gia các buổi học trải nghiệm tại di sản với nhiều bạn trẻ chỉ đơn thuần là “một chuyến đi chơi”.
TS Lê Thị Minh Lý, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa cho rằng: UNESCO khuyến nghị di sản văn hóa phải trở thành nơi cung cấp cơ hội học tập suốt đời cho công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, tập trung vào ba trụ cột chính: Kiến thức, kỹ năng và năng lực. Các chương trình giáo dục di sản văn hóa tạo ra kênh kết nối giá trị, ý nghĩa và nội dung của di sản văn hóa với công chúng, thu hút sự quan tâm của họ.
Tuy nhiên, để làm được hiệu quả, theo TS Lê Thị Minh Lý cho rằng, giáo dục di sản cần có không gian trải nghiệm chuyên biệt để hoạt động hiệu quả; đồng thời có chính sách thu hút đội ngũ cộng tác viên và đào tạo cán bộ chuyên sâu về giáo dục di sản trong quá trình triển khai. Ở đó, với các hoạt động giáo dục di sản theo phương pháp mới tại di tích chú trọng tăng cường hoạt động trải nghiệm, tương tác.
Nâng cao sự phối hợp
Có thể nói, việc giáo dục di sản hiện nay đang đòi hỏi sự phối hợp giữa nhà trường và các di tích. Việc biến các di sản vốn “khô cứng” trở nên thân thiện trong nhiều năm qua vẫn là bài toán “hóc búa” trong việc “chiều lòng” những người trẻ. Ở đó đòi hỏi sự thay đổi trong cách thức tiếp cận trong các chương trình giáo dục di sản đến từ các di tích, mà thực tế điều này mới chỉ được áp dụng ở một vài di sản lớn.
Đơn cử, các di sản Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hoàng thành Thăng Long, di tích Nhà tù Hỏa Lò… đã tạo dựng được thương hiệu, bằng những hành trình khám phá di sản. Theo ông Lê Xuân Kiêu, Giám đốc Trung tâm Hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám, các chương trình giáo dục di sản được trung tâm đặt nhiều kỳ vọng là hoạt động tìm hiểu lịch sử khoa cử, khám phá họa tiết trên bia tiến sĩ… cùng trải nghiệm in tranh qua mộc bản, mặc trang phục của trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa… thời xưa. Sau thời gian các di tích tạm ngừng hoạt động để thực hiện giãn cách xã hội , đơn vị tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho giáo dục di sản để phục vụ tốt hơn đối tượng khách tham quan trong nước, những người đã có những hiểu biết nhất định về di sản, cần có những hành trình trải nghiệm chuyên sâu hơn.
Hay di sản Nhà tù Hỏa Lò đã phối hợp với một số trường đại học trên địa bàn thành phố, khởi động chương trình giáo dục lịch sử Đảng thông qua hoạt động tìm hiểu tư liệu lịch sử về các hình thức đấu tranh của các đảng viên trung kiên trong nhà tù đế quốc… Còn Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long – Hà Nội đang ấp ủ chương trình giáo dục di sản mới mang tên “Trạng nguyên thành Thăng Long”, trong đó tập trung xây dựng các hoạt động trải nghiệm, tương tác để tìm hiểu kiến thức văn hóa, lịch sử qua kỳ thi Đình – kỳ thi cao nhất trong hệ thống khoa cử thời xưa, được tổ chức tại Hoàng thành Thăng Long.
Từ thực tế trên, để nâng tầm được giáo dục di sản đang hỏi chính những người làm giáo dục, quản lý các di tích cần phải nắm bắt được tâm lý, nhu cầu của người trẻ xem họ thích gì ? Cách tiếp cận ra sao ? Từ đó tìm ra những giải pháp hiệu quả vừa phát huy được giá trị của di sản, vừa tạo ra không gian bổ ích cho người trẻ. Thậm chí những người quản lý di sản, làm giáo dục phải “trẻ lại” để có thể nắm bắt được nhu cầu của chính những bạn trẻ, thay vì những cách làm khô cứng trước đó.
Thái Bình ban hành tiêu chí lựa chọn sách giáo khoa lớp 1
UBND tỉnh Thái Bình vừa ban hành tiêu chí lựa chọn sách giáo khoa lớp 1 theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Ảnh minh họa/internet
Theo đó, các tiêu chí đưa ra là: Phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội của địa phương; Phù hợp với điều kiện tổ chức dạy và học tại cơ sở giáo dục phổ thông.
Với tiêu chí đầu tiên, yêu cầu nội dung sách giáo khoa đảm bảo tính kế thừa; phù hợp với truyền thống văn hóa, lịch sử, địa lý của các địa phương tỉnh Thái Bình;
Cấu trúc sách giáo khoa rõ ràng, cụ thể, dễ phân biệt các phần bằng các logo, biểu tượng gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ với học sinh tiểu học; tạo điều kiện để nhà trường, tổ/nhóm chuyên môn, giáo viên bổ sung những nội dung và hoạt động đặc thù thích hợp, sát với thực tế của địa phương;
Chất lượng sách giáo khoa đảm bảo, phù hợp lứa tuổi học sinh (màu sắc, kênh hình, kênh chữ, giấy in,...); giá thành sách giáo khoa hợp lý, sử dụng được nhiều năm, phù hợp với điều kiện kinh tế của địa phương, thuận lợi cho phụ huynh hướng dẫn, giúp đỡ con em học tập.
Tiêu chí phù hợp với điều kiện tổ chức dạy và học tại cơ sở giáo đục phổ thông được cụ thể hóa thành các yêu cầu như sau:
Thứ nhất: Nội dung sách giáo khoa bảo đảm tính khả thi, phù hợp với cơ sở vật chất, thiết bị dạy học và năng lực của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục. Nội dung sách giáo khoa có thể triển khai hiệu quả với điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học hiện có của nhà trường, đáp ứng dạy học 2 buổi/ngày.
Cấu trúc, nội dung sách giáo khoa có tính mở, bảo đảm được việc dạy học tích cực, phân hóa, tích hợp; tạo điều kiện để nhà trường, giáo viên chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong việc xây dựng và thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục 2 buổi/ngày.
Nội dung sách giáo khoa bảo đảm triển khai khả thi, phù hợp với năng lực chung của đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên trong trường.
Thứ 2, phù hợp với sự phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Theo đó, sách giáo khoa được trình bày hấp đẫn, cân đối, hài hòa giữa kênh chữ và kênh hình, tính thẩm mỹ cao, gây hứng thú với học sinh.
Nội dung sách giáo khoa đảm bảo tính khoa học với các hoạt động học tập phong phú, được chỉ dẫn rõ ràng, giúp học sinh xác đinh được mục tiêu học tập, đáp ứng các yêu cầu cần đạt.
Nội dung sách giáo khoa theo hướng mở, phân chia theo các mạch chủ đề/bài học nhằm phát triển đầy đủ phẩm chất, năng lực chung và năng lực đặc thù của môn học; có thể điều chỉnh để phù hợp với khả năng nhận thức và phương pháp học tập của các nhóm đối tượng học sinh.
Các hoạt động giáo dục gắn liền với đời sống thực tiễn hiện nay, được thiết kế và tổ chức theo hướng mở nhằm tăng cường rèn luyện các phẩm chất, năng lực, tính sáng tạo cho học sinh.
Hệ thống câu hỏi, bài tập có tính phân hóa giúp học sinh có khả năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến thức, ôn tập, củng cố, vận dụng vào thực tiễn nhằm phát triển năng lực, phẩm chất cần thiết trong cuộc sống.
Thứ 3, tạo đỉều kiện cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá. Theo đó, các bài học/chủ đề trong sách giáo khoa được thiết kế, trình bày với đa dạng các hoạt động, thuận lợi cho giáo viên linh hoạt trong việc lựa chọn phương án, hình thức tổ chức và phương pháp dạy học tích cực.
Sách giáo khoa có các nội dung, chủ đề kiến thức liên môn, giáo dục tích hợp giúp giáo viên thực hiện các hoạt động dạy học gắn kết với thực tiễn cuộc sống.
Nội dung sách giáo khoa thể hiện rõ, đủ các yêu cầu về mức độ cần đạt; bảo đảm mục tiêu phân hóa, tạo điều kiện để nhà trường, tổ/nhóm chuyên môn xây dựng kế hoạch kiểm tra, đánh giá phù hợp với kế hoạch giáo dục của nhà trường.
Thứ 4, thuận tiện trong việc bồi dưỡng, giáo viên tự bồi dưỡng. Cụ thể, tác giả sách giáo khoa là các chuyên gia giáo dục, nhà khoa học có uy tín, có điều kiện cùng đồng hành với các cơ sở giáo dục trong suốt quá trình bồi dưỡng giáo viên.
Có tài liệu thuyết minh, tài liệu bồi dưỡng, sách hướng dẫn giáo viên đi kèm với sách giáo khoa. Có nguồn tài nguyên, học liệu điện tử bổ sung đa dạng, phong phú, hữu ích.
Mỗi tiêu chí được định lượng bằng điểm số cụ thể. Căn cứ tổng điểm, Hội đồng lựa chọn sách giáo khoa đề xuất phương án lựa chọn.
Hải Bình
Kể chuyện cô Phượng! Cô Phượng là một giáo viên rất năng nổ, nhiệt tình trong các phong trào của trường học và đạt được nhiều thành tích đáng nể trong sự nghiệp giáo dục. Mùa xuân về trên khắp nẻo đường của đất nước, mỗi người dân đều mong đợi một năm mới hạnh phúc và nhiều niềm vui, đối với ngành giáo dục mùa xuân...