Gừng hồng Gari – món ăn giữ ấm cho những ngày chớm Đông
Chớm Đông, nhón một lát gừng hồng khai vị làm ấm hầu họng, bữa ăn sẽ ngon hơn, tròn vị hơn.
Gừng Gari hay còn gọi là gừng hồng – món đồ chua rất độc đáo của ẩm thực Nhật Bản – vốn đã quen thuộc với người sành đồ ăn Nhật. Một món ăn đơn giản nhưng lại vô cùng tinh tế của người Nhật, từ cách làm tỉ mỉ đến cách trình bày món đính kèm với các món chính như sushi hay các loại gỏi sống khác.
Cùng với mù tạt xanh, gừng hồng Gari là món không thể thiếu trong bữa ăn của người Nhật. Gừng Gari tô điểm cho thực đơn thêm sinh động, đẹp mắt với sắc hồng nhạt, gần giống với màu hoa đào, biểu trưng cho vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế của ẩm thực Nhật Bản.
Gừng hồng Gari – món gừng ngâm chua ngọt nổi tiếng, rất quen thuộc với những người sành ăn món Nhật.
Nhiều tín đồ sành ăn món Nhật cho hay mình bị nghiện món gừng hồng Gari, hơn cả các món chính khác trên bàn tiệc. Đơn giản vì miếng gừng hồng vừa mỏng, nhẹ lại có vị chua ngọt dễ ăn. Nó gần giống với món rau củ chua ngọt của người Việt nhưng lại mang vị hăng nhẹ của gừng, giúp kích thích vị giác trước và trong khi ăn.
Ngoài tác dụng chính là làm tăng cảm giác ngon miệng, chống ngấy thì gừng hồng còn có tác dụng giữ ấm cơ thể, tăng đề kháng, kháng viêm, được xem như một chất bôi trơn giúp hệ tiêu hóa làm việc mượt mà hơn. Gừng hồng còn là người bạn tốt của những mẹ bầu bị chứng nghén thai kì hành hạ. Chỉ một vài lát gừng sẽ giúp đẩy lùi cơn nghén mùi, nôn ói trong thai kì.
Gừng hồng Gari được xem là loại thực phẩm rất tốt trong hỗ trợ, điều trị các chứng bệnh về tiêu hóa, thấp khớp…
Một vài nghiên cứu gần đây còn chỉ ra một số tác dụng đáng ghi nhận của gừng hồng Gari với các loại bệnh như giảm đau và điều trị các bệnh viêm khớp, thấp khớp mãn tính. Chất gingerols trong gừng Gari là tác nhân ngăn ngừa ung thư ruột kết và làm giảm thiểu các tế bào ung thư.
Các giáo sư trường Đại học Y dược Maryland cho rằng, những thành phần trong gừng Gari , ngoài tác dụng đến hệ tiêu hóa còn làm thông tắc các mạch máu, nhờ đó làm giảm thiểu nguy cơ đột quỵ.
Những tác dụng hữu ích này khiến nhiều người ngày càng ưa chuộng món gừng Gari và đưa vào thực đơn thường xuyên hơn.
Gừng hồng Gari giúp giữ ấm tì vị trong những ngày lạnh
Nếu không muốn mua gừng Gari bên ngoài với giá đắt đỏ, nhân mùa gừng non đang về, chị em có thể làm gừng Gari tại nhà để dùng dần, vừa tiết kiệm vừa an toàn.
Cách làm gừng Gari cũng khá đơn giản. Tuy nhiên, để có miếng gừng chua ngọt ngon xuất sắc, chị em cần phải lựa được những tai gừng non mướt, tươi và mập mạp. Như vậy, gừng sẽ không bị nhiều sớ và ít đắng, thành phẩm dẻo mềm, dễ ăn.
Gừng Gari có cách làm đơn giản
CÁCH LÀM GỪNG GARI
Nguyên liệu:
- 600gram gừng non (sơ chế xong còn khoảng 500gram)- 150gram đường cát trắng- 150ml giấm gạo- 1 củ dền- 2 trái chanh- 1/2 muỗng cà phê muối
Thực hiện:
Gừng rửa sạch, cạo vỏ, bào thật mỏng cho vào thau nước có vắt nước cốt 1 trái chanh để gừng không bị thâm. Sau đó rửa sạch nhiều lần. Nấu một nồi khoảng 2 lít nước. Khi nước sôi, cho gừng vào luộc khoảng 5 phút, vắt 1 trái chanh còn lại vào nước luộc gừng. Vớt gừng ra rửa lại nhiều lần, để thật ráo hoặc đem hong nắng cho ráo hết nước. Nếu sợ nồng, ta có thể luộc 2 lần để xả gừng.
Chọn gừng non củ tươi, mập sẽ cho ra thành phẩm gừng Gari mềm dẻo
Củ dền cắt nhỏ cho vào 150ml nước nấu 2 phút, lọc lấy nước, bỏ bã. Cho vào nước củ dền 150gram đường, 150ml giấm, 1/2 muỗng cà phê muối, nấu tan, để thật nguội.
Xếp gừng vào lọ thủy tinh sạch, chế nước giấm đường trên vào ngập mặt gừng, gài vỉ cho gừng không trồi lên, đậy kín nắp. Gừng để ngăn mát tủ lạnh 1 ngày sau là dùng được.
Chớm Đông, nhón một lát gừng hồng khai vị làm ấm hầu họng, bữa ăn sẽ ngon hơn, tròn vị hơn.
Bánh ngọt Wagashi - Đỉnh cao của ẩm thực Nhật Bản
Nếu muốn cảm nhận hết nét tinh tế của ẩm thực Nhật Bản thì bất cứ ai cũng không nên bỏ qua món bánh cực đẹp mắt mang tên Wagashi. Người ta nói rằng, Wagashi được coi là đỉnh cao của ẩm thực của đất nước mặt trời mọc.
Món bánh Wagashi đặc trưng của xứ sở Hoa anh đào.
Đất nước ở Đông Á vốn nổi tiếng với nền văn hóa đậm bản sắc, chuẩn mực và tinh tế. Từ trà đạo, kịch Nô cho đến kĩ nữ geisha đều là những đại diện đáng tự hào cho xứ sở Phù Tang. Ngoài ra còn có một niềm tự hào khác, một món ăn "nổi tiếng" trong giới ẩm thực, có thể sánh vai cùng sushi và trà đạo, đó là bánh ngọt Wagashi (hòa quả tử). Nó không chỉ thơm ngon từ hương vị mà còn làm nức lòng người thưởng thức bởi vẻ đẹp tinh xảo và điêu luyện, biến hóa trên từng mẩu bánh.
Không chỉ là món ăn mà còn là nghệ thuật tinh tế
Wagashi là một loại bánh ngọt truyền thống của Nhật Bản, thường được phục vụ cùng với trà. Tên gọi "Wagashi" để chỉ các loại đồ ngọt được trình bày đẹp mắt, mang tính thẩm mĩ cao chứ không đơn thuần là ngon miệng. Người dân xứ Phù Tang vốn có quan niệm mĩ học rất sâu sắc, do đó cái đẹp trở thành chuẩn mực hàng đầu trong từng lĩnh vực của đời sống.
Người Nhật sử dụng trái cây và hạt như những chất tạo ngọt, thêm hương vị cho các loại ngũ cốc dinh dưỡng như gạo, kê và ngũ cốc. Wagashi đã ra đời từ thời Yayoi (300 TCN - 300) khi đời sống con người còn ở thuở khai nguyên, Wagashi đã ra đời ở Nhật như một thiêng phẩm dùng để tế thần. Ở thời đại này, những chiếc bánh Wagashi chỉ đơn giản là những mẩu bánh thô nhân quả hạt, không có gì quá đặc biệt.
Cho đến thời kì Nara (thế kỉ thứ 8), loại bánh này bị ảnh hưởng các thành phần từ Trung Hoa và phong cách Phật giáo và mới bắt đầu bước vào thời kỳ thịnh vượng và phát triển mạnh mẽ. Mãi cho đến thời kì Edo (thế kỉ 17 - 19), chính sách ngoại giao mở cửa đã làm cho món bánh này được phương Tây biết đến nhiều hơn. Wagashi mới đạt đến độ "chín" thực sự và chính thức trở thành một nét nghệ thuật đặc sắc trong đỉnh cao ẩm thực Nhật Bản.
Chiếc bánh đẹp như một tuyệt tác nghệ thuật.
Wagashi trở thành biểu tượng món ngon của xứ sở hoa anh đào và chỉ dành riêng cho giới thượng lưu hay những bậc quý tốc giàu có, chức quyền trong xã hội. Đây được xem là món ăn tráng miệng không thể thiếu sau các bữa ăn cùng với tiệc trà, những người được thưởng thức bánh ngọt Nhật Bản Wagashi đều cho thấy được sự cao sang, quý phái, đẳng cấp so với người khác.
Nối dòng lịch sử, bánh ngọt Wagashi vẫn trường tồn theo thời gian và giữ được hương vị thanh khiết truyền thống đặc trưng. Chỉ đến khi Nhật Bản bước vào những năm 1900 thời Minh, giao thương mở cửa, Á Âu giao hòa thì Wagashi mới bắt đầu có những thay đổi để phù hợp hơn với bạn bè năm châu.
Wagashi có tên Tiếng Hán là "Hòa Quả Tử", tức là vẻ đẹp của tự nhiên. Do đó mỗi chiếc Wagashi đều được ví như một tiểu vũ trụ tổng hòa những yếu tố tươi đẹp trong đất trời: Bột bánh thường được nhuộm màu theo các mùa trong năm, hình dạng bánh đa dạng tương ứng với các hình ảnh thiên nhiên (hoa anh đào, hoa mơ, lá phong, bông tuyết,...) và đặc biệt là nhân bánh từ đậu đỏ tượng trưng cho con người đứng ở trung tâm. Với ý nghĩa triết học phương Đông sâu sắc ẩn trong từng món ăn nhỏ bé, Wagashi trở thành một nghệ thuật ẩm thực đặc trưng và đáng tự hào của người Nhật.
Nếu xét về phương diện của món bánh ngọt thì Wagashi đã vượt qua mọi khuôn khổ của một thực phẩm thông thường, nó không chỉ làm cho thực khách cảm nhận được vị ngon mà còn kích thích cả khứu giác, thị giác và xúc giác. Bánh ngọt Nhật Bản Wagashi sau khi qua bàn tay tuyệt tác tài hoa của các nghệ nhân làm bánh lành nghề sẽ cho ra hàng trăm mẫu bánh có hình dạng và vẻ đẹp phong phú từ hoa lá, họa tiết cho đến các biểu tượng manga, nhân vật hoạt hình được yêu thích.
Rất nhiều loại Wagashi
Có rất nhiều thành phần trong món bánh này. Wagashi quan trọng nhất là đậu (azuki) đỏ hay trắng. Kế đến là thạch (kanten) giàu chất xơ, chiết xuất từ rong biển để làm wagashi dạng thạch (yokan). Đặc biệt, một loại đường cổ xưa được sản xuất tại Nhật Bản (wasambonto) là một nguyên liệu quan trọng để làm nên hương vị độc đáo cho món bánh này.
Loại đường này trải qua giai đoạn tinh chế truyền thống đặc biệt để cho ra những hạt màu kem thật mịn, vị thanh thoát và mùi thơm của bơ và mật ong khá dễ chịu. Thông thường, wasambonto được sử dụng trong bánh "higashi" - loại wagashi khô. Ngoài ra, phần lớn nguyên liệu làm bánh đều được đánh giá là thanh khiết, sạch sẽ vì không có xuất xứ từ động vật (trừ nguyên liệu trứng).
Hầu hết các nguyên liệu làm wagashi đều thanh khiết, sạch sẽ, không có xuất xứ từ động vật (trừ nguyên liệu trứng) nên rất thích hợp cho người thèm ngọt nhưng bị cholesterol huyết cao. Ngoài ra, với thành phần chính là đậu đỏ, một loại thực phẩm giàu đạm, vitamin B1, B2, B6 cùng một số nguyên tố vi lượng, wagashi đúng là một thứ quà vặt vừa thơm ngon vừa giàu dinh dưỡng.
Thông thường, một thợ làm bánh phải mất 12 năm mới học thành nghề và trở thành nghệ nhân làm bánh Wagashi. Do đó, mỗi chiếc bánh là một tác phẩm nghệ thuật mang đầy tâm huyết của người nghệ nhân. Mỗi mùa là những loại Wagashi khác nhau, chỉ là những chú chim, hay chiếc lá, bông hoa nho nhỏ cũng có thể đánh thức cảm quan của người dùng về mùa màng, tiết trời xung quanh. Phong cảnh thiên nhiên và thậm chí, nền hội họa của Nhật Bản cũng có thể đưa vào wagashi để quảng bá cho người dùng.
Namagashi - bánh ẩm được làm thủ công, tạo hình bằng tay và sử dụng ngay trong ngày, loại wagashi này thể hiện rõ nét hình ảnh của thiên nhiên trên mỗi thành phẩm, thông qua bàn tay tài năng của người nghệ nhân. Mỗi mùa sẽ có những hình ảnh đặc trưng riêng: có thể là những bông hoa nở bung đầy sức sống vào mùa xuân, hay vẻ e ấp của nụ đào mới chớm vào mùa đông,... Do bánh có độ ẩm cao (trên 30%) nên người ta có thể tạo hình khá dễ dàng.
Món bánh đẹp, tinh tế và ngon miệng.
Yokan - bánh thạch là loại wagashi này đặc biệt làm từ bột đậu đỏ giã nhuyễn với đường, sau đó cô đặc trong khối thạch 'kanten'. Loại bánh này có độ rắn đặc biệt hơn so với dạng thạch thông thường. Loại bánh yokan thanh mát này thường dùng cho những tháng hè nóng bức.
Monaka - bánh rán, thoạt nhìn ban đầu khá giống các loại bánh quy ngày nay. Cũng gần như thế, monaka thường có hình hoa anh đào hay cúc, gồm một lớp bột đậu đỏ kẹo giữa hai lớp bánh nếp nướng mỏng. Bật mí nhé, monaka và bánh dorayaki của mèo ú Doraemon cùng một loại đấy các bạn. Nhưng vỏ bánh dorayaki thì được làm từ bột mì, trứng, sữa khá giống phương Tây hơn.
Bánh Manju tròn trịa như bánh bao, làm từ bột mì hay bột khoai mỡ hấp với nhân bên trong vẫn là đậu đỏ. Vì cách làm đặc trưng nên manju thường được tạo hình thành những quả như anh đào, sơn trà khá đẹp mắt.
Thế nhưng, dù có hình thù khác nhau, tất cả chiếc bánh ngọt Wagashi đều có một điểm chung đó là hương vị thơm ngọt thanh khiết, dễ chịu, mềm tan nơi đầu lưỡi. Người ta còn bí mật truyền tay nhau rằng bí quyết của vị ngọt thanh khiết đó chính là nhờ một loại đường mía truyền thống được sản xuất tại Nhật Bản có tên gọi wasambonto. Loại đường này được trải qua quá trình tinh chế công phu và cho ra những hạt màu kem cực mịn có vị thơm ngọt thanh tao của bơ và mật ong trộn lẫn.
Được biết, trà đạo - phong tục truyền thống nổi tiếng của Nhật bản sẽ kém hoàn hảo nếu thiếu Wagashi. Wagashi đã được đưa vào trong các buổi trà đạo từ thế kỉ 16. Dư vị ngọt ngào mà thanh thoát của bánh sẽ làm tan đi vị chát nhưng vẫn không làm mất đi tinh chất thơm ngon của trà xanh. Loại wagashi thường được dùng là namagashi, có vị ngọt khá đậm.
Ngày nay, Wagashi vẫn là một trong những loại bánh đẳng cấp nhất, được dùng trong các bữa tiệc sang trọng, các buổi tiệc trà và phần lớn để dùng làm quà biếu trong dịp trọng đại. Giá của mỗi chiếc Wagashi rất đắt. Một hộp bánh nhỏ tầm 6 chiếc có giá khoảng 3.000 yên (gần 600.000 đồng).
Tô mì ramen cá răng đao ở Nhật Bản Ninja Café & Bar ở thành phố Tokyo, Nhật Bản, là nhà hàng đầu tiên trên thế giới kết hợp cá răng đao với mì ramen truyền thống. Mỗi tô có giá khoảng 28 USD.