Gia đình 3 thế hệ làm bánh dày: Nửa đêm rầm rập giã, ngày hết 300kg gạo nếp
Mỗi ngày, vợ chồng anh Sơn (Văn Lâm, Hưng Yên) cùng 5 người thợ tất bật giã bánh dày từ 1 giờ chiều đến 12 giờ đêm, làm ra hàng nghìn cặp bánh dày chay và hàng trăm chiếc bánh dày đỗ dải khắp Hà Nội.
Làng Ngọc, xã Lạc Đạo (Văn Lâm, Hưng Yên) xưa kia nổi tiếng với nghề làm bàn máy khâu, ngày nay, nhiều hộ dân trong làng “ăn nên làm ra” với nghề làm bàn bi-a , loa thùng , nấu rượu…, nhà cao tầng mọc lên san sát.
Cũng tại đây, còn 3 hộ gia đình lưu giữ nghề làm ra những chiếc bánh tròn trịa “tượng trưng cho trời”, mỗi ngày cung cấp cho thị trường Hà Nội hàng nghìn cặp bánh.
Đến cổng chợ Đậu của làng Ngọc, người dân chỉ đường cho tôi tới nhà anh Lê Văn Sơn, một trong 3 gia đình làm bánh dày lâu đời nhất ở đây.
Tầng 1 của căn nhà 3 tầng xếp gần chục tấn gạo nếp và đỗ xanh, đi sâu bên trong là khu xưởng đặt 3 chiếc máy giã bánh, cùng chiếc nồi hơi đồ xôi “khổng lồ” và các thùng gạo nếp đã được ngâm sẵn chuẩn bị cho mẻ bánh mới.
Anh Sơn (áo trắng) thừa kế nghề từ bà ngoại và mẹ. Cách đây hơn 50 năm, bà Thang (bà ngoại anh Sơn) được biết đến là một trong những người đầu tiên trong làng làm bánh dày giã tay, sau đó, bà Thênh (mẹ anh Sơn) tiếp nối.
“Ngày xưa, giò chả là món ăn chỉ nhà giàu mới có, nên 100% nhà tôi làm bánh dày nhân đỗ xanh, chủ yếu bán cho hành khách trên chuyến tàu đi Cẩm Giàng (Hải Dương) – Hà Nội. Mãi đến năm 1990, bố mẹ tôi mới bắt đầu làm bánh dày chay”.
Nhớ lại quãng thời gian hơn 20 năm về trước, anh Sơn vừa nói vừa “khoe” đôi bàn tay chai sạn vì giã bánh: “Cái thời còn giã tay, mỗi ngày nhà tôi chỉ làm được tối đa 7 ca gạo (khoảng 10kg), chỉ ước có con robot giã thay mình thôi vì quá vất vả, 2 bàn tay giờ vẫn chai cứng”.
Năm 2001, anh Sơn dốc hết tiền mua chiếc máy giã bánh gần 10 triệu đồng, nhưng phải để góc nhà 3 tháng vì điện ở làng yếu, máy không chạy được: “10 triệu ngày ấy to lắm, tôi phải nhờ thợ cơ khí loay hoay sửa mãi mới dùng được”.
Máy giã đập mạnh và đều hơn nên thời gian giã rút ngắn từ 1 tiếng còn 35 phút, bánh cũng mịn và dẻo hơn.
“Có thể các món ăn khác làm truyền thống, thủ công sẽ ngon hơn, nhưng với bánh dày thì ngược lại, giã bằng máy ngon và tiết kiệm thời gian gấp nhiều lần”, anh Sơn cho biết.
Mỗi ngày, anh Sơn và những người thợ bắt đầu nổi lửa thổi xôi từ 1 giờ chiều, làm liên tục đến 12 giờ đêm. Những ngày lượng hàng đặt tăng, 2 vợ chồng anh phải làm thâu đêm mới kịp.
Bánh dày làm từ gạo nếp và đỗ xanh nên chỉ bán được trong ngày, vì vậy, bánh sẽ được làm vào chiều và đêm để sáng sớm giao cho tiểu thương đi bán lẻ. Theo thứ tự, bánh dày chay làm trước, bánh dày nhân đỗ làm sau cùng.
Bánh dày giản dị, dân dã nhưng để làm ra nó thì lại rất cầu kỳ. Để có mẻ bánh mịn, dẻo, đầu tiên phải chọn được gạo nếp ngon, không bị lẫn hạt gạo tẻ, rồi đem ngâm trong nước khoảng 6 tiếng.
Một ngày anh Sơn ngâm từ 200 – 300kg gạo nếp, có thời điểm lên đến 500kg/ngày
Trung bình, một ngày anh Sơn ngâm từ 200 – 300kg gạo nếp, có thời điểm lên đến 500kg/ngày. Những ngày có nhiều đám cưới đặt bánh, anh phải huy động thêm nhân công và làm thâu đêm mới đủ đáp ứng nhu cầu. Ngày rằm, mùng 1 thì làm nhiều hơn, còn thứ 7, chủ nhật lại giảm bởi các trường học, công sở được nghỉ.
Đãi gạo qua nước sạch, sau đó cho vào nồi hơi “khổng lồ” đồ chín. Một nồi đồ được tối đa 30kg gạo, rồi chia xôi làm 3 phần cho 3 máy giã. Để xôi không dính vào tấm bạt, người thợ phải bôi qua một lớp mỡ lợn.
Xôi được giã khi còn nóng, mỗi thợ đảm nhiệm 1 máy, liên tục lật, dở, xoay để xôi được giã đều, đến khi nhuyễn mịn thì đổ ra để nặn.
Nặn bánh dày
Chị Hiên (vợ anh Sơn) quen gọi công đoạn nặn bánh là “bắt” bột. Đôi tay chị khéo léo, kéo bột dài ra rồi “bắt” thành từng viên có kích cỡ như quả trứng gà. Bánh được dải đều trên mặt bàn inox, khi bột còn nóng và mịn sẽ tự chảy ra thành những chiếc bánh tròn trịa.
Trước khi gói bánh vào lá dong, người thợ xoa một lớp mỡ lên 2 chiếc bánh rồi kẹp vào nhau.
“11 – 12 giờ đêm mới làm xong, 1h sáng lại bắt đầu đóng hàng cho khách. Tôi chỉ tranh thủ ngủ được một lúc buổi sáng thôi”, Anh Sơn tâm sự.
Bánh dày đỗ có loại tròn, loại dài. Tùy vào nhu cầu của khách hàng, bánh dày chay có giá 3.000 đồng, 5000 đồng, 10.000 đồng/1 cặp.
Từ 3 – 4 giờ đêm, người dân trong làng rầm rộ mang hàng hóa ra bán buôn ở cổng chợ Đậu để tiểu thương kịp mang ra Hà Nội bán vào buổi sáng: “Nào là bánh chưng, bánh gai, cơm nắm, bánh giò,… có hôm còn tắc đường”, anh Sơn cho biết.
Chỉ 1 cặp bánh dày chay kẹp giò lụa hoặc chả là có ngay bữa sáng ấm bụng. Khi ăn sẽ cảm nhận hương nếp trong từng miếng bánh, cái dẻo của nếp quyện với vị giò gói trong lá chuối, cùng với vị mặn của giò sẽ làm cho miếng bánh thêm đậm đà, ngon miệng.
"Báu vật" giúp hàng giò chả nức tiếng phố cổ Hà Nội đông khách suốt 40 năm
Không chỉ "hút" khách bằng công thức gia truyền suốt 40 năm, quán còn khiến khách hàng tò mò khi cân giò chả bằng chiếc cân gần 100 tuổi.
Đây được xem là "báu vật" được các thành viên trong gia đình ông Tuấn gìn giữ, nhắc nhở về triết lý kinh doanh trung thực, chất lượng với khách hàng.
Cửa hàng giò chả còn lưu giữ món đồ "cổ" ấy nằm trên phố Đường Thành (Hoàn Kiếm, Hà Nội) từ năm 1981. Nhưng theo lời của ông Nguyễn Lý Tuấn, chủ quán hiện tại, nhà ông bán giò chả đã hơn 70 năm.
Ông Tuấn và 2 người em trai cùng lưu giữ nghề này đã ngót nghét 40 năm, ngày ngày 6 người trong gia đình (3 anh em trai và 3 người con dâu) vẫn thức dậy cùng nhau, cùng xay thịt, thái mỡ, luộc giò, canh lửa rán chả và bán hàng.
Chiếc cân đĩa "cổ" dùng để bán hàng của quán. Đây được xem là "báu vật" được các thành viên trong gia đình ông Tuấn gìn giữ, nhắc nhở về triết lý kinh doanh trung thực, chất lượng với khách hàng.
Nhiều người không khỏi tò mò về chiếc cân đĩa khi đến mua hàng ở đây, ông Tuấn lưu giữ cả bộ quả cân đủ loại từ 5 gam, 10 gam...đến 500 gam. Ông kể: "Chiếc cân này có từ khi tôi chưa sinh ra, quý lắm, giờ có tiền cũng không mua được, có người gạ hỏi mua nhưng trả bao nhiêu tiền tôi cũng không bán".
Bộ quả cân được ông Tuấn gìn giữ.
Chiếc cân và bộ quả cân được xem như "chứng nhân lịch sử" trải qua năm tháng kinh doanh của gia đình. Có biết bao miếng chả, khoanh giò đã được đặt lên chiếc đĩa cân này.
Phần đỡ đĩa cân đã gỉ và phải buộc dây, đĩa cân méo, sứt mẻ, những quả cân bằng sứ đã mòn hết chữ, bên ngoài bóng loáng vì mỡ giò chả từ tay bám vào. Cuối ngày, gia đình ông phải lau chùi, bảo dưỡng để tránh hoen gỉ.
Món bán chạy nhất của quán là chả mỡ vân hoa, xưa kia đây được xem là món ăn "xa xỉ" trong mâm cơm của người Việt. Ngày nay, dù có nhiều món ăn ngon, lạ miệng hơn nhưng giò, chả vẫn được xem là món ăn không thể thiếu, đặc biệt vào dịp giỗ chạp, lễ Tết.
Bí quyết để làm nên miếng chả trứ danh của quán là chọn được nguyên liệu tươi, ngon, phải chọn thịt mông, dẻo dính tay, mỡ phần lấy từ vai. Chọn được nguyên liệu chuẩn rồi thì việc còn lại áp dụng y nguyên công thức của bà, của mẹ để lại.
Thịt sau khi thái mỏng được cho vào cối xay, khi đã nhuyễn thì thêm gia vị và xay tiếp rồi đem ra trộn với mỡ.
Ông Tuấn bật mí: "Mỡ không xay lẫn với thịt mà phải thái hạt lựu, thái đều tay, để khi cắt ra, miếng chả mới có hình vân hoa hấp dẫn". Sau đó đem hấp, phết màu hoa hiên rồi rán. Sao cho bên trong thịt mềm, bên ngoài lớp vỏ màu vàng ruộm.
Bên cạnh chả mỡ, một số món khác của tiệm giò chả này cũng đắt hàng, như chả cốm, chả quế, giò, ruốc, bánh chưng...
Món chả cốm thì quan trọng nhất là nguyên liệu cốm, còn chả quế thì đòi hỏi các bước làm rất kỳ công. Thịt nạc xay nhuyễn, trộn với mỡ khổ thái hạt lựu, quế chi và các gia vị khác rồi đắp vào ống để quay trên than. Sau đó, phải canh lửa không rời mắt và phết mật ong lên, quay đến khi thịt và hương quế quyện làm một.
Miếng chả quế có vỏ vàng sẫm, ăn có vị thơm cay của quế, mật ong.
Ngoài mua chả về để ăn cùng cơm, xôi, hoặc làm quà biếu, khách cũng có thể thưởng thức ngay tại chỗ món chả kẹp bánh dày.
Chiếc bánh dày được kéo giãn, sau đó đặt miếng chả lên rồi gói lại, bọc lá chuối bên ngoài. Ăn đến đâu xé lá chuối đến đấy theo vòng tròn để không bị dính tay.
Ông Tuấn cho biết, số lượng giò chả hàng ngày bán ra không thể đếm được, những ngày tuần rằm, lễ Tết thì bán chạy hơn, thậm chí khách phải xếp hàng đợi mua.
Quyết tâm gìn giữ công thức gia truyền, chăm chút tỉ mỉ cho từng món ăn, nhiều khách hàng quen vị, dù ở xa vẫn đến đây mua ăn thử.
"Bánh dày là "món cổ", còn bánh mì từ khi có dịch Covid-19 do nhu cầu của người ăn nên nhà tôi mới bán thêm", chủ quán cho biết.
Với người Việt Nam, đĩa giò, đĩa chả đã trở thành món ăn không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết từ xưa đến nay. Sự tỉ mỉ, kỹ tính cùng với cách lưu giữ nghề của gia đình ông Tuấn đã khiến nhiều người ăn một lần rồi nhớ mãi.
Cơn "sốt" bánh ngải màu xanh lét, tiểu thương "hốt bạc" bán mỏi tay Với giá bán chỉ từ 4.000 - 6.000 đồng chiếc, bánh ngải Lạng Sơn có màu xanh mướt mắt đang gây sốt trên chợ mạng. Thậm chí, nhiều chị em còn rủ nhau mua chung cả trăm chiếc về ăn dần. Gần đây, món bánh ngải Lạng Sơn đang gây sốt trên chợ mạng khiến giới nội trợ "phát cuồng". Do bánh được...