Cứu sống bé trai 10 tuổi bị đột quỵ não hiếm gặp
Lần đầu tiên một trường hợp bệnh nhân nhỏ tuổi bị đột quỵ não được các bác sĩ của Bệnh viện Đà Nẵng cứu sống.
Chiều 2/11, Bệnh viện Đà Nẵng thông tin, các bác sĩ khoa Đột quỵ của Bệnh viện vừa cấp cứu khẩn ngay trong đêm cứu bé trai 10 tuổi bị đột quỵ não hiếm gặp.
Bé trai Nguyễn N.H. (SN 2013, ngụ quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng) nhập cấp cứu Bệnh viện Đà Nẵng trong tình trạng lơ mơ, liệt nửa người phải, không nói được. Người nhà cho biết, khi đang chơi cùng bé thì bé nói đau đầu, sau đó méo miệng, lơ mơ, nói khó nên đưa đến Bệnh viện Đà Nẵng.
Tại Phòng cấp cứu, Bệnh viện Đà Nẵng, các bác sĩ tiến hành chụp CT sau đó hội chẩn khẩn với các bác sĩ khoa Đột quỵ. Đây là trường hợp đột quỵ trẻ em rất hiếm gặp, bệnh nhi vào viện có tình trạng yếu nửa người phải tiến triển đến liệt hoàn toàn và rối loạn tri giác, chỉ may mắn duy nhất là gia đình biết thông tin về bệnh đột quỵ nên đưa cháu nhanh chóng đến bệnh viện Đà Nẵng trong thời gian vàng.
Bệnh nhi Nguyễn N.H. đã phục hồi sức khỏe sau ca điều trị.
Chính vì vậy các bác sĩ đã kích hoạt báo động đỏ nội viện với mức độ “đặc biệt” nhất để huy động sự hỗ trợ của các bác sĩ chẩn đoán hình ảnh, can thiệp mạch não, nhân viên xét nghiệm của bệnh viện để làm các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết cho chẩn đoán bệnh. Đồng thời hội chẩn khẩn với chuyên gia đột quỵ đầu ngành tại TP Hồ Chí Minh ngay trong đêm để chẩn đoán chính xác và quyết định điều trị cấp bằng thuốc tiêu sợi huyết với hy vọng cứu sống bệnh nhi.
ThsBS Phạm Như Thông, Phó Trưởng khoa Đột quỵ, Bệnh viện Đà Nẵng cho biết, trường hợp bệnh nhân nhỏ tuổi bị đột quỵ như vậy chưa từng gặp tại Bệnh viện Đà Nẵng. Việc điều trị sẽ gặp rất nhiều khó khăn và rủi ro vì có thể có thêm biến chứng, cũng như có thể để lại di chứng ảnh hưởng đến tương lai của cháu. May mắn bệnh nhi đáp ứng điều trị, cải thiện dần sau quá trình điều trị thuốc và tập phục hồi chức năng tích cực. Hiện tại bệnh nhân đã xuất viện và đi học trở lại sau gần một tháng nằm viện.
Video đang HOT
Bác sĩ Thông cho biết thêm, qua trường hợp này cho thấy đột quỵ có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi. Nếu xảy ra ở người trẻ hoặc trẻ nhỏ, hậu quả có thể rất nặng nề do di chứng cả về thể chất và tinh thần cho người bệnh. Đối với những trường hợp bệnh nhi có bất thường về tim mạch hoặc có rối loạn đông máu là một trong những nguyên nhân có thể dẫn tới đột quỵ cần được quan tâm lưu ý hơn.
“Đối với người bị đột quỵ, thời gian là vàng, quyết định sự sống cũng như là khả năng phục hồi của bệnh nhân. Vì vậy, người nhà bệnh nhân cần nắm rõ các dấu hiệu đột quỵ: BE FAST để nhận biết sớm và cấp cứu kịp thời bệnh nhân bị đột quỵ. Cụ thể: B (BALANCE): mất thăng bằng, đau đầu, chóng mặt, E (EYESIGHT): mất thị lực 1 phần/hoàn toàn, tầm nhìn bị mờ đột ngột, F (FACE): gương mặt tự nhiên bị méo, nụ cười méo 1 bên, nhân trung lệch, A (ARM): một bên tay chân yếu, cầm nắm đồ không chắc, S (SPEECH): mất khả năng nói, đột nhiên nói khó, nói ngọng, T (TIME): Khi xuất hiện đột ngột các triệu chứng trên nhanh chóng gọi 115 hoặc đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để được cấp cứu kịp thời”, BS Thông chia sẻ và khuyến cáo
Cách phòng ngừa căn bệnh hàng đầu gây tử vong và tàn phế
Đột quỵ là gánh nặng toàn cầu với khoảng 12 triệu ca mới hàng năm. Riêng Việt Nam, khoảng 200.000 người phải đối mặt với nguy cơ tàn phế và tử vong do đột quỵ.
Tuy vậy, hậu quả này hoàn toàn có thể phòng tránh.
Theo thống kê, hằng năm Việt Nam có khoảng 200.000 ca bệnh đột quỵ, trong đó có đến 50% số ca đột quỵ diễn biến xấu và tử vong. Đây cũng là căn nguyên gây tử vong, tàn phế hàng đầu.
Mặc dù hiện nay cấp cứu đột quỵ đã được mở rộng đến 24 giờ nhưng mỗi phút thiếu máu não sẽ mất thêm gần 2 triệu tế bào thần kinh. Do đó, người bệnh đột quỵ cần phải nhập viện càng sớm càng tốt để được đánh giá nhanh và điều trị kịp thời.
Nguy hiểm là vậy nhưng các chuyên gia khẳng định đột quỵ có thể phòng ngừa. Thực tế cho thấy hầu hết bệnh nhân đột quỵ đều mang một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ và không được kiểm soát hiệu quả.
Theo Tiến sĩ, bác sĩ Nguyễn Bá Thắng, Trưởng Đơn vị Đột quỵ, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, đột quỵ được xem là bệnh tử thần thời đại 4.0. Hiện nay, 2 nhóm yếu tố nguy cơ chính gây đột quỵ gồm nhóm yếu tố có thể thay đổi được như hút thuốc lá, nghiện rượu, béo phì, rung nhĩ; nhóm yếu tố không thể thay đổi được như tuổi tác, giới tính, gene di truyền.
Để phòng tránh đột quỵ, cần ngăn chặn các yếu tố nguy cơ gây bệnh thông qua các chương trình tầm soát đột quỵ. Việc phát hiện sớm cùng kế hoạch kiểm soát chặt chẽ các yếu tố nguy cơ, thay đổi các thói quen và lối sống lành mạnh sẽ giúp ngăn ngừa đột quỵ hiệu quả.
Người bị đột quỵ cần được đưa đến bệnh viện cấp cứu nhanh nhất có thể. Ảnh: GL.
Ông P.V.B (58 tuổi, Đồng Nai) cho biết ông đã bỏ thuốc lá khoảng 5 năm sau khi một người bạn cấp cứu vì đột quỵ. Sau thời gian nằm viện, người bạn này phải tập luyện phục hồi chức năng khoảng 2 năm để sinh hoạt, đi lại mà không phụ thuộc vào người thân.
"Bác sĩ nói ông bạn bị tăng huyết áp và hút thuốc nhiều nên bị đột quỵ hơn người khác. Gia đình biết chuyện cũng khuyên tôi bỏ thuốc lá vì sợ rơi vào tình cảnh tương tự", ông B. nói.
Bác sĩ Hoàng Tiến Trọng Nghĩa, Trưởng khoa Nội Thần kinh, Bệnh viện Quân y 175 (TP.HCM), cho biết những người có yếu tố nguy cơ đột quỵ cần được đánh giá nguy cơ bệnh mạch máu và điều chỉnh lối sống (gồm chế độ ăn, hoạt động thể lực, giảm cân, hút thuốc lá và uống rượu).
Trong đó, hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng của xơ vữa mạch máu, làm tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành, đột quỵ tiên phát và bệnh mạch máu ngoại biên. Những nghiên cứu gần đây mở rộng trên các đối tượng hút thuốc lá thụ động cũng cho thấy có tăng nguy cơ đột quỵ.
Thói quen thứ hai cần điều chỉnh là uống rượu bia. Bác sĩ Nghĩa cho hay sử dụng các thức uống có cồn quá mức là yếu tố nguy cơ gây ra đột quỵ do dẫn đến tăng huyết áp, tăng đông máu, giảm lưu lượng tưới máu não và làm xuất hiện rung nhĩ.
Mục tiêu hàng đầu của phòng ngừa đột quỵ là giảm và ngừng uống rượu đối với các bệnh nhân nghiện rượu bằng các biện pháp tham vấn.
Phòng ngừa tình trạng thừa cân béo phì cũng góp phần giảm nguy cơ đột quỵ ở mỗi người. Tỷ lệ thừa cân và béo phì có xu hướng tăng nhanh và phổ biến trong cộng đồng. Béo phì làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch, đặc biệt là bệnh mạch vành và đột quỵ thông qua rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, đề kháng insulin, đái tháo đường.
Uống rượu bia quá mức là yếu tố nguy cơ của đột quỵ. Ảnh: GL.
Những nghiên cứu về dịch tễ gần đây cho thấy nguy cơ đột quỵ bắt đầu tăng tuyến tính khi chỉ số BMI (chỉ số khối cơ thể) trên 20, nghĩa là cứ BMI tăng lên 1 thì nguy cơ đột quỵ tăng thêm 5%. Giảm cân có thể thực hiện bằng thay đổi lối sống, hành vi, dùng thuốc hoặc phẫu thuật.
Ngoài ra, mỗi người cần tăng cường hoạt động thể lực ở mức độ phù hợp để góp phần giảm nguy cơ đột quỵ. Theo bác sĩ Nghĩa, mức hoạt động thể lực đối với người bình thường là 3-4 buổi/tuần, thời gian trung bình khoảng 40p/buổi với cường độ trung bình.
Hơn nữa, hoạt động thể lực còn giảm 10-30% nguy cơ đột quỵ và bệnh mạch vành thông qua việc giảm cân, giảm huyết áp, cải thiện lipid máu, giảm sự đề kháng insulin.
Theo Hội đột quỵ thế giới, đột quỵ là gánh nặng toàn cầu với khoảng 12 triệu ca mới mỗi năm. Hiện châu Á đứng đầu gánh nặng với số người đột quỵ lớn nhất thế giới, yếu tố nguy cơ nhất là tăng huyết áp.
Khoảng 200.000 người Việt đột quỵ mỗi năm, ai có nguy cơ cao? Đột quỵ có thể xuất hiện ở bất kỳ ai, ở bất kỳ độ tuổi nào. Tuy nhiên, một số đối tượng tiềm ẩn nguy cơ đột quỵ cao hơn bình thường như người hút thuốc lá, béo phì, rung nhĩ hoặc do gene di truyền. Thông tin trên được các bác sĩ của Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM chia sẻ...