Còn ống động mạch: Nguyên nhân, triệu chứng, cách phòng ngừa và điều trị
Bệnh lý còn ống động mạch ở trẻ sơ sinh nếu không được điều trị kịp thời sẽ khiến huyết áp trong phổi trẻ tăng lên (tăng áp động mạch phổi), tim to ra và suy yếu.
Ống động mạch là gì? Trước khi sinh, thai nhi có một lỗ thông nối hai mạch máu chính dẫn từ tim – động mạch chủ và động mạch phổi. Lỗ thông này cần thiết cho sự lưu thông máu của em bé, giúp em bé nhận được oxy từ tuần hoàn của mẹ. Sau khi sinh, ống động mạch thường đóng lại trong vòng 2 hoặc 3 ngày.
Ở trẻ sinh non, quá trình này mất nhiều ngày hơn. Nếu sau thời gian này, lỗ thông vẫn mở gọi là bệnh lý còn ống động mạch ( PDA), máu sẽ chảy đến phổi và tim của trẻ sơ sinh quá nhiều. Bệnh không được điều trị kịp thời sẽ khiến huyết áp trong phổi trẻ tăng lên (tăng áp động mạch phổi), tim to ra và suy yếu.
1. Nguyên nhân gây còn ống động mạch
Còn ống động mạch là bệnh lý tim bẩm sinh với tỷ lệ khoảng 5 -10% và thường gặp ở trẻ em gái nhiều hơn trẻ em trai (tỷ lệ khoảng nam/nữ = 1/3). Có một số nguyên nhân gây còn ống động mạch ở trẻ như:
Sinh non: Còn ống động mạch xảy ra phổ biến hơn ở những trẻ sinh thiếu tháng. Nguyên nhân là phổi của trẻ sinh non thường không nhận đủ chất bôi trơn (surfactant – chất hoạt động bề mặt), dẫn tới phát triển hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh – một vấn đề về hô hấp, đồng thời phát triển còn ống động mạch.
Tiền sử gia đình và các tình trạng di truyền khác: Trẻ có tiền sử gia đình bị dị tật tim hoặc các tình trạng di truyền khác, chẳng hạn như hội chứng Down, sẽ tăng nguy cơ mắc còn ống động mạch.
Mẹ nhiễm rubella khi mang thai: Nếu mẹ mắc bệnh rubella trong khi mang thai, nguy cơ dị tật tim của trẻ sẽ tăng lên. Virus rubella đi qua nhau thai và lây lan qua hệ thống tuần hoàn của em bé, làm tổn thương các mạch máu và cơ quan, trong đó có tim.
2. Dấu hiệu còn ống động mạch
Còn ống động mạch là tình trạng máu sẽ đi từ động mạch chủ qua động mạch phổi. Điều này khiến gia tăng dòng máu vào hệ tuần hoàn phổi và tăng lượng máu trở về tim trái làm tăng nguy cơ mắc suy tim và tăng áp phổi.
Thông thường, còn ống động mạch nhỏ sẽ không gây ra triệu chứng cơ năng – những cảm giác mà chỉ có người bệnh mới cảm nhận được, nếu ống động mạch lớn sẽ khiến trẻ bị xẹp phổi, viêm phổi hoặc suy tim ứ huyết, thở nhanh, khó thở khi gắng sức và ăn kém, chậm lên cân.
ThS.BS Nguyễn Thu Huyền (ngoài cùng bên phải) – Khoa Nội tim mạch, Bệnh viện 19-8.
Còn ống động mạch sẽ gây ra các triệu chứng thực thể như:
Thở nhanh, tim đập nhanh trong trường hợp có suy tim.
Nếu ống động mạch lớn sẽ thấy mạch ngoại biên nẩy mạnh, hiệu áp rộng, mỏm tim tăng động và rung miêu tâm thu ở phần trên bờ ức trái. Tiếng tim T2 bình thường hoặc tăng mạnh nếu có tăng áp phổi.
Tiếng thổi liên tục khoang liên sườn.
Các bác sĩ sẽ thông qua điện tâm đồ, X-quang, siêu âm tim… để chẩn đoán còn ống động mạch.
Còn ống động mạch lớn xảy ra trong thời kỳ sơ sinh hoặc thời thơ ấu của trẻ sẽ biểu hiện bằng các triệu chứng như:
- Ăn kém dẫn đến tăng trưởng kém
Video đang HOT
- Đổ mồ hôi khi khóc hoặc ăn
- Thở nhanh dai dẳng hoặc khó thở
- Dễ mệt mỏi
- Nhịp tim nhanh
3. Còn ống động mạch có lây không?
Còn ống động mạch không phải là bệnh lý lây nhiễm
4. Phòng bệnh còn ống động mạch
Hiện tại vẫn chưa có biện pháp nào giúp phòng ngừa tuyệt đối bệnh lý còn ống động mạch. Tuy nhiên, một thai kỳ khỏe mạnh sẽ tạo tiền đề để thai nhi phát triển tốt, phòng tránh các khuyết tật bẩm sinh.
Để làm được điều này, các bà mẹ cần:
Lên kế hoạch 6 tháng trước khi mang thai: bỏ thuốc lá, không lạm dụng rượu bia, có chế độ ăn đủ chất, bổ sung các vi chất thiết yếu (axit folic, canxi, sắt, kẽm…), giảm căng thẳng, tiêm ngừa đầy đủ ( vaccine cúm, rubella, viêm gan B, thủy đậu…).
Tập thể dục thường xuyên trong suốt thai kỳ. Phụ nữ mang thai có thể hỏi ý kiến bác sĩ để được tư vấn về các bài tập phù hợp với bạn.
Kiểm soát bệnh đái tháo đường: Nếu bạn bị đái tháo đường, hãy tuân thủ phác đồ điều trị của bác sĩ để kiểm soát tình trạng bệnh trước và trong khi mang thai.
Trường hợp bạn có tiền sử gia đình bị dị tật tim hoặc các rối loạn di truyền khác, hãy đi khám trước khi mang thai. Bác sĩ có thể chỉ định làm các xét nghiệm sàng lọc để giảm thiểu nguy cơ thai nhi mang gen khuyết tật bẩm sinh.
Nếu bản thân bạn bị bệnh lý tim mạch, hãy lắng nghe tư vấn từ bác sĩ về việc mình có thể mang thai và sinh nở hay không.
Đối với trẻ thường xuyên có viêm phổi, viêm phế quản tái đi tái lại nhiều lần phụ huynh cần cho đi khám tim mạch để phát hiện sớm bệnh lý còn ống động mạch cũng như các bệnh lý tim bẩm sinh khác.
Còn ống động mạch xảy ra phổ biến hơn ở những trẻ sinh thiếu tháng.
5. Cách điều trị còn ống động mạch
Tất cả các bệnh nhân bị còn ống động mạch đều phải được điều trị, các phương pháp bao gồm nội khoa, phẫu thuật hoặc dùng dụng cụ để đóng ống động mạch ngoại trừ trường hợp ống động mạch nhỏ không nghe âm thổi, áp lực động mạch phổi bình thường.
Bệnh nhân sẽ được chỉ định đóng ống động mạch bằng dụng cụ nếu rơi vào các trường hợp sau:
Còn ống động mạch lớn và có ảnh hưởng đến huyết động
Bệnh nhân suy tim
Chậm lớn
Tuần hoàn phổi tăng hay lớn nhĩ trái, thất trái (yêu cầu cân nặng bệnh nhân phù hợp).
Sau khi làm thủ thuật, người bệnh sẽ thăm khám định kỳ và siêu âm tim khoảng 3-6 tháng hoặc 1 năm/lần tùy chỉ định của bác sĩ. Khi làm thủ thuật có thể sẽ gặp một số biến chứng như: hẹp eo động mạch chủ, tán huyết, dụng cụ bị di chuyển…
Bệnh nhân được chỉ định phẫu thuật trong các trường hợp không thể đóng ống động mạch bằng dụng cụ. Với phương pháp này ít có biến chứng cho người bệnh.
Ở trẻ sinh non, còn ống động mạch thường tự đóng lại. Bác sĩ sẽ theo dõi tim của bé để đảm bảo mạch máu mở đang đóng lại đúng cách. Đối với trẻ sinh đủ tháng, còn ống động mạch nhỏ thường không gây ra các vấn đề sức khỏe khác. Cho nên, trường hợp này chưa cần điều trị mà chỉ cần theo dõi sát sao.
Sử dụng thuốc: Đối với trẻ sinh non bị còn ống động mạch, bác sĩ có thể kê toa thuốc chống viêm không steroid (NSAID), chẳng hạn như ibuprofen hoặc indomethacin để hỗ trợ lỗ thông tự đóng lại. Các loại thuốc này không có tác dụng đối với còn ống động mạch ở trẻ sơ sinh đủ tháng, trẻ nhỏ và người lớn.
Đóng ống động mạch qua da: Trẻ sinh non thường quá nhỏ, không đủ điều kiện để tiến hành thủ thuật này. Do đó, nếu trẻ không gặp phải biến chứng liên quan đến còn ống động mạch, bác sĩ sẽ khuyên đợi đến khi em bé lớn hơn rồi mới can thiệp đóng ống động mạch.
Ở thủ thuật này, một ống thông mỏng được đưa vào mạch máu ở bẹn và luồn đến tim trẻ. Thông qua ống thông, một dụng cụ (coil, amplatzer…) được đưa vào để đóng ống động mạch.
Phẫu thuật: Nếu thuốc không hiệu quả và tình trạng của trẻ không phù hợp với thủ thuật đóng ống động mạch qua da, bác sĩ sẽ chỉ định phẫu thuật để thắt ống động mạch bằng chỉ khâu hoặc kẹp. Thường phải mất vài tuần để trẻ hồi phục hoàn toàn sau ca phẫu thuật. Đôi khi, phẫu thuật thắt ống động mạch cũng được khuyến nghị cho người lớn bị còn ống động mạch gây ra các vấn đề sức khỏe khi mà giải phẫu ống không phù hợp cho can thiệp đóng ống bằng dụng cụ qua da.
Dấu hiệu sớm bệnh tim bẩm sinh ở trẻ
Bệnh tim bẩm sinh là dạng dị tật phổ biến nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu của các ca dị tật bẩm sinh ở trẻ em.
Vì vậy, việc phát hiện sớm là vô cùng quan trọng.
Nguyên nhân gây bệnh tim bẩm sinh
Tim bẩm sinh là những khuyết tật ở tim, ở các mạch máu lớn do sự ngừng hoặc kém phát triển các thành phần của phôi tim trong thời kì bào thai. Theo thống kê tỉ lệ mắc bệnh tim bẩm sinh trung bình khoảng 1% đến 2% trong tổng số trẻ mới sinh.
Trong tim bẩm sinh, các bệnh thường gặp là: thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch, tứ chứng Fallot, chuyển gốc động mạch, hẹp động mạch phổi...
Hầu hết các trường hợp tim bẩm sinh là do mẹ mang thai trong 10 tuần đầu (đặc biệt từ tuần thứ 5 đến tuần thứ 8) mắc các bệnh nhiễm khuẩn (nhiễm virus cúm, sởi, sốt phát ban...), nhiễm độc (hóa chất, thuốc, các chất phóng xạ...). Một số trường hợp do rối loạn về di truyền: hội chứng Marfan, lệch khớp háng, hội chứng Down, biến dị đơn gen...
Theo Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ, cứ khoảng 1.000 trẻ sơ sinh thì có 9 trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh, mức độ thay đổi từ nhẹ đến nặng. Tim bẩm sinh có thể đi kèm với bệnh lý bất thường về gene như trong hội chứng Down, nhưng đa phần các trường hợp không rõ nguyên nhân.
Bệnh tim bẩm sinh là dạng dị tật phổ biến nhất và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ em.
Dấu hiệu nhận biết sớm tim bẩm sinh ở trẻ em
Dựa vào sinh lý bệnh, chia tim bẩm sinh thành 3 loại:
Tim bẩm sinh có luồng máu thông từ trái sang phải (Shunt trái - phải): lâm sàng còn gọi là tim bẩm sinh không tím hoặc tím muộn, gồm các bệnh thông liên thất, thông liên nhĩ, còn ống động mạch, dò động mạch, vỡ túi phình xoang Valsalva, ống nhĩ thất chung...
Tim bẩm sinh có luồng máu từ phải sang trái (shunt phải - trái, gồm 2 nhóm:
Nhóm ít máu lên phổi: tứ chứng Fallot, tam chứng Fallot, ngũ chứng Fallot, teo van động mạch phải, teo van ba lá, Ebstein, thất phải 2 đường ra...
Nhóm nhiều máu lên phổi: Chuyển gốc động mạch, thân chung động mạch, tim một thất, thất trái 2 đường ra, hội chứng Taussig - Bing...
Biểu hiện tim bẩm sinh ở trẻ sơ sinh bao gồm: Khó thở, thở nhanh, thở rút lõm, bú ít và ngừng nghỉ liên tục khi bú mẹ.
Trẻ được vài tháng tuổi trở lên sẽ có biểu hiện rõ rệt hơn: Thường xuyên ho, thở khò khè và hay bị viêm phổi.
Ngoài ra, trẻ có thể có một số biểu hiện đi kèm như thể chất chậm phát triển, da xanh xao, môi và đầu ngón chân, ngón tay chuyển màu tím khi trẻ khóc.
Dị tật tim bẩm sinh có thể đi kèm với các bệnh liên quan đến việc đột biến nhiễm sắc thể như down, sứt môi, thiếu hoặc thừa ngón chân... Những trường hợp này cần được theo dõi đặc biệt để sớm phát hiện và điều trị những dị tật về tim bẩm sinh nếu có.
Cũng có một số trẻ mắc bệnh tim bẩm sinh nhưng không có biểu hiện rõ rệt và chỉ tình cờ được phát hiện khi trẻ được đưa đi kiểm tra sức khỏe hoặc đi khám bệnh khác.
Phòng ngừa tim bẩm sinh
Cần siêu âm tầm soát ít nhất một lần cho trẻ ngay sau khi trẻ vừa chào đời hoặc trong tháng đầu tiên của trẻ.
Tùy từng loại dị tật tim bẩm sinh mà có các chỉ định phù hợp. Có những trường hợp yêu cầu phẫu thuật rất sớm ngay trong những tháng đầu sau sinh. Có thể là phẫu thuật sửa toàn bộ hoặc phẫu thuật sửa tạm thời. Trẻ bị tim bẩm sinh cần được theo dõi định kỳ với một bác sĩ tim mạch nhi để có những quyết định điều trị tại những thời điểm phù hợp.
Để phòng ngừa tim bẩm sinh ở trẻ nhỏ, cha mẹ cần lưu ý những khuyến cáo như:
Cân nhắc mang thai nếu bố, mẹ có di truyền liên quan đến bệnh tim bẩm sinh, tiểu đường, lupus đỏ...
Khi mang thai phải tránh tiếp xúc các tác nhân vật lý, hóa học, độc chất, các loại an thần, nội tiết, rượu, thuốc lá... nhiễm trùng (Rubella, quai bị, Herpes Cytomegalovirus, Coxsackie B...).
Tiêm ngừa bệnh sởi, rubella trước khi mang thai.
Trong suốt thời gian mang thai, mẹ không uống rượu bia, hút thuốc lá và các loại thuốc mà chưa có chỉ định của bác sĩ, nhất là trong 3 tháng đầu thai kỳ.
Ngoài ra, khi mang thai cần khám thai cũng như siêu âm thai nhi ít nhất một lần trong thai kỳ của mình để tầm soát tim bẩm sinh cho trẻ. Ở tuần thai thứ 18 - 22 là thời điểm vàng để siêu âm chẩn đoán dị tật tim bẩm sinh của thai nhi. Nếu đã bỏ lỡ việc siêu âm tim thai, cần siêu âm tầm soát ít nhất một lần cho trẻ ngay sau khi trẻ vừa chào đời hoặc trong tháng đầu tiên của trẻ.
Trẻ trên 6 tuần tuổi cần tiêm ngừa vắc - xin nào? Trẻ từ 6 tuần tuổi cần tiêm vắc-xin 6 trong 1, cúm, thủy đậu, viêm não Nhật Bản, viêm màng não, sởi, quai bị, rubella, viêm gan A, HPV... TS BS Nguyễn Huy Luân thăm khám và tư vấn tiêm chủng cho trẻ. Ảnh: (BVCC) ThS BS Nguyễn Hiền Minh, Phó Trưởng Đơn vị tiêm chủng Bệnh viện Đại học Y dược TPHCM...