Chứng đau tâm lý’ sau đột quỵ và chấn thương sọ não
Những người bệnh đột quỵ và chấn thương sọ não, sau khi được cứu sống có thể bị mất ngôn ngữ, được coi là “chứng đau tâm lý” sau điều trị. Bản thân người bệnh và người nhà không biết sẽ tiếp tục chữa chạy ở đâu để người bệnh thấu hiểu cũng như bày tỏ được cảm xúc của mình, dù chỉ là một phần rất nhỏ, nhiều người đã từ bỏ vì nghĩ rằng đó là di chứng, y học cũng “bất lực”. Tuy nhiên, có thật sự y học “bất lực” hay không?
Nguyên nhân gây mất ngôn ngữ?
Những tai biến mạch máu não là nguyên nhân thường gặp nhất của mất ngôn ngữ, những chấn thương sọ não kín và hở do tai nạn giao thông, tai nạn lao động hoặc trong khi đang cơn đau nửa đầu cũng có thể xuất hiện những rối loạn mất ngôn ngữ. Ngoài ra những u não, những nhiễm khuẩn có ổ áp- xe hay lan tỏa cũng có thể gây mất ngôn ngữ.
Đột quỵ não là nguyên nhân chính gây nên “chứng đau tâm lý”.
Dấu hiệu của mất ngôn ngữ
Mất ngôn ngữ nói
Mất vận ngôn là hiện tượng mất ăn khớp trong vận động ngôn ngữ do hậu quả của một hay nhiều yếu tố như liệt hay bại những cơ của phát âm, rối loạn trương lực của cơ này dẫn đến những co cơ quá mạnh hay kéo dài, những rối loạn mất dùng động tác. Biểu hiện mất vận ngôn là có những méo tiếng (ví dụ như hiện tượng rụng mất nguyên âm cuối, “truyền thanh” thì nói là “truyền than”), sự đồng hóa các từ hay sự thay thế từ.
Rối loạn nhịp điệu tiếng nói: là biểu hiện của sự rối loạn về nhịp điệu, chuyển giọng và tốc độ nhanh của lưu lượng tiếng nói. Những người mất ngôn ngữ đã bị mất đi “âm điệu của ngôn ngữ” và một số người lại nói với những trọng âm giống như một vài trọng âm ngoại quốc.
Chứng lắp lời, mất ngữ pháp: là biểu hiện của những mẩu của một câu, những từ hay những tiếng, đơn độc hay hơi nhiều hình thành một ngôn ngữ nói duy nhất tồn tại theo tâm trạng người bệnh. Chứng mất ngữ pháp được đặc trưng bởi những câu đã bị mất, những từ phụ trợ (liên từ, giới từ…) giống như kiểu thể văn điện tín.
Video đang HOT
Chứng thiếu từ: là một trong những rối loạn đặc trưng nhất của hằng định nhất của mất ngôn ngữ. Người bệnh không thể hay khó tự gợi ra cái tên chính xác của một vật. Những người mất ngôn ngữ thường đưa ra một định nghĩa theo thông dụng (ví dụ, đôi đũa: đó là để ăn). Chứng thiếu từ có thể là biểu hiện đầu tiên, đơn độc hay cuối cùng của mất ngôn ngữ.
Chứng nói loạn biệt ngữ: là một rối loạn được biểu hiện là những từ dùng không sát hợp được thay thế những từ đúng (dùng một từ này cho một từ khác). Ví dụ như “phòng lan” được dùng thay cho “phong lan”
Mất dùng động tác mồm mặt: người bệnh không có khả năng thực hiện theo yêu cầu hay bắt chước những động tác phối hợp các cơ mặt và mồm như tặc lưỡi, hôn hay biểu hiện niềm vui và nỗi buồn.
Mất ngôn ngữ viết
Mất ngôn ngữ viết thường khởi bệnh chậm hơn, phức tạp hơn và bị rối loạn trầm trọng hơn. Trong bệnh lý có thể gặp chứng thiếu từ, chứng lẫn chữ hay chứng bịa chữ. Chứng loạn chính tả có xu hướng viết dịch theo ngữ âm của ngôn ngữ nói. Chứng loạn cú pháp gặp gần như thường xuyên. Những rối loạn về mất dùng động tác có thể gây khó khăn cho chữ viết: sự sắp xếp không gian của chữ viết rất xấu. Trong một số trường hợp, những nét chữ bị rút bớt đi chỉ còn là những vòng bán khuyên hay những nét nguệch ngoạc không ra hình dạng gì.
Những tổn thương tại não gây rối loạn khả năng viết.
Y học có “bất lực” trước hiện tượng mất ngôn ngữ?
Cần xác định mức độ mất ngôn ngữ, ở mức độ nặng khi bệnh nhân hầu như hoặc hoàn toàn không giao tiếp được với người xung quanh bằng ngôn ngữ ở mức độ nhẹ khi họ còn khả năng hoàn thành ý định hoặc chỉ làm được dang dở hay đảo ngược trong quá trình thực hành nghề nghiệp và gây ra những xung đột nặng nề trong đời sống gia đình.
Để đánh giá tiên lượng và phục hồi chức năng cho người bị mất ngôn ngữ sau đột quỵ não, chấn thương sọ não thì còn phụ thuộc vào tuổi của người bệnh, bản chất của quá trình bệnh lý, ưu thế trội sử dụng tay. Tuy nhiên, để bảo đảm cho điều trị và phục hồi chức năng ngôn ngữ cho người bệnh, cần có một trung tâm chuyên nghiệp, trong đó phải có sự kết hợp của 3 nhà chuyên gia: thần kinh học, giáo dục – tâm lý học và ngôn ngữ học.
Liệu trình điều trị đòi hỏi phải có thời gian tương đối dài, khá công phu nên người bệnh phải rất nhẫn nại, tự giác thực hiện các yêu cầu của thầy thuốc. Sự thông cảm và hợp tác chặt chẽ giữa thầy thuốc và người bệnh là rất quan trọng cho quá trình phục hồi ngôn ngữ. Bệnh nhân phải học, phải tập nói, tập viết từng chữ, từng câu dưới sự trợ giúp của thầy thuốc và người thân đúng như trong quãng đời ấu thơ của mình. Được như vậy, “chứng đau tâm lý” này sẽ được giải tỏa, niềm tin và hy vọng sẽ đến với người bệnh và gia đình.
Theo Sức khỏe đời sống
Cách xử trí nôn trớ ở trẻ
Nôn trớ là hiện tượng thường gặp ở trẻ. Muốn xử trí tốt hiện tượng này trước hết phải tìm rõ nguyên nhân của nó.
Nôn: hiện tượng thức ăn trong dạ dày bị đưa hết ra ngoài do sự co bóp của dạ dày phối hợp với co bóp của cơ hoành và thành bụng.
Trớ: hiện tượng một lượng thức ăn bị trào ra khỏi miệng ngay sau bữa ăn hoặc trong bữa ăn. Đây là hiện tượng sinh lý trong vòng 6 tháng đầu không cần phải điều trị.
Các nguyên nhân
Nôn là triệu chứng của một số bệnh:
Ngoài triệu chứng nôn trẻ còn có các triệu chứng khác đặc trưng của từng bệnh, đây là những trường hợp nôn đột xuất không phải thường xuyên.
Nôn, trớ là hiện tượng sinh lý trong vòng 6 tháng đầu không cần phải điều trị.
- Nôn trong một số bệnh nhiễm khuẩn cấp tính: viêm họng, viêm phế quản, viêm phổi, ngoài triệu chứng nôn trẻ thường kèm theo: sốt, ho, khó thở.
- Nôn trong ỉa chảy cấp: ngoài nôn trẻ kèm theo tiêu chảy, mất nước.
- Nôn trong các bệnh não màng não, viêm màng não mủ, u não, áp xe não: ngoài nôn trẻ kèm theo các triệu chứng: co giật, sốt, hôn mê, thóp phồng (trẻ dưới 12 tháng).
- Nôn trong ngộ độc thức ăn: trẻ kèm theo đi ỉa, đau bụng, dấu hiệu nhiễm khuẩn, nhiễm độc.
- Nôn trong các bệnh ngoại khoa: tắc ruột, lồng ruột: ngoài dấu hiệu nôn trẻ kèm theo cơn khóc thét do đau bụng, bụng chướng, bí trung, đại tiện, hoặc đi ngoài ra máu trong lồng ruột.
- Nôn do hẹp ruột bẩm sinh, phì đại môn vị hẹp thực quản: Nôn xuất hiện sớm trong vòng 1 tuần đầu sau khi sinh, hầu như bữa nào cũng nôn, nôn ngay sau khi ăn hoặc 1 vài giờ, cần được phát hiện sớm để điều trị bằng phẫu thuật.
Nôn thường xuyên
Ngoài triệu chứng nôn trẻ không có các triệu chứng khác kèm theo thường do các nguyên nhân sau:
Sai lầm về ăn uống: Ăn quá nhiều, quá no do trẻ nuốt quá nhiều không khí khi ngậm vú giả hoặc bú bình không nghiêng cho sữa ngập cổ bì ăn xong đặt trẻ nằm ngay do quấn tã bụng quá chặt do rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn co bóp dạ dày.
Xử trí khi trẻ bị nôn
Nếu trẻ nôn đột xuất và kèm theo các triệu chứng khác của từng bệnh thì phải đưa ngay trẻ đi bệnh viện.
Nôn do sai lầm ăn uống:
- Không ép trẻ ăn quá no.
- Khi bú chai: cầm nghiêng chai sữa 450 cho sữa ngập hết cổ chai sữa.
- Không cho trẻ ngậm đầu vú giả.
Nôn do rối loạn thần kinh thực vật:
- Sau khi ăn bế vác trẻ đứng thẳng 10 - 15 phút.
- Không quấn rốn quá chặt.
Dùng thuốc ức chế co thắt dạ dày:
- Cồn Benando: 1 - 3 giọt/ngày.
- Atropin dung dịch 1/1000: 2 giọt trước khi ăn.
- Gacdenan: 0,01g x 4 lần/ngày.
Cần theo dõi trọng lượng của trẻ nếu không tăng cân hoặc sụt cân cần đưa khám bác sĩ để kiểm tra lại chẩn đoán.
Theo SK&ĐS
Nguy cơ u não khi chụp x-quang răng Chụp X-quang răng nhiều hơn 1 lần/năm có thể làm tăng gấp đôi, thậm chí gấp 3 nguy cơ phát triển một chứng u não phổ biến, theo một nghiên cứu tại Mỹ. Các nhà nghiên cứu nhận thấy những người thường xuyên chụp x-quang răng hơn sẽ có thể bị 1 bệnh ung thư không lây có tên meningioma. Những khối u...