Các thuốc điều trị HIV và tác dụng phụ cần lưu ý
Thuốc là một phần thiết yếu trong việc chăm sóc người nhiễm HIV/AIDS, giúp họ sống khỏe mạnh, lâu dài… nhưng tác dụng phụ của thuốc cũng rất phổ biến và thường có thể ngăn ngừa hoặc kiểm soát được.
Dưới đây là một số nhóm thuốc dùng trong điều trị HIV/AIDS và các tác dụng phụ phổ biến. Để ngăn ngừa tương tác với các loại thuốc khác, bạn cần trao đổi với bác sĩ điều trị về tất cả các loại thuốc đang dùng, đồng thời báo ngay cho bác sĩ nếu bạn có các triệu chứng mới, bất thường hoặc kéo dài.
Thuốc ARV là một phần không thể thiếu được trong điều trị HIV giúp người nhiễm HIV khỏe mạnh và sống lâu hơn…
1. Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTIs)
Thuốc ức chế men sao chép ngược nucleoside (NRTIs) ngăn không cho HIV nhân rộng bằng cách ngăn chặn một loại enzyme được gọi là men sao chép ngược. Điều này giúp làm giảm tải lượng virus HIV trong cơ thể của một người, gồm:
- Abacavir (ziagen, triumeq, trizivir): Tác dụng phụ thường gặp phản ứng quá mẫn, tăng cholesterol, tăng nguy cơ mắc bệnh tim… Do đó, cần thực hiện xét nghiệm di truyền trước khi bạn bắt đầu dùng thuốc này.
- Emtricitabine (emtriva, atripla, descovy, truvada…): Thường gặp phát ban và sạm da ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân.
- Lamivudine (epivir, combivir, delstrigo, trizivir): Có thể gây phát ban da.
- Tenofovir disoproxil fumarate – TDF (viread, truvada): Gây tổn thương thận và xương. Do đó, không sử dụng cho người có vấn đề về thận.
- Tenofovir alafenamide – TAF: Tăng cholesterol LDL (có hại), gây tăng cân.
- Zidovudine – còn gọi là AZT (retrovir, combivir, trizivir): Gây thiếu máu, buồn nôn, nôn, nhiễm axit lactic, tăng cholesterol, giảm mỡ ở tay, chân hoặc mặt, gan nhiễm mỡ…
2. Thuốc ức chế men sao chép ngược không nucleoside (NNRTI)
Cách tăng cường cơ bắp trong quá trình điều trị HIV
Các chất ức chế men sao chép ngược không nucleoside (NNRTI) ngăn không cho HIV sao chép bằng cách liên kết và thay đổi men sao chép ngược mà HIV sử dụng để sao chép. Điều này làm giảm tải lượng virus HIV trong cơ thể người bệnh, gồm:
Video đang HOT
- Doravirine (pifeltro, delstrigo): Phát ban da, tăng cân.
- Efavirenz (sustiva, atripla): Có thể gây những giấc mơ sống động, lo lắng, trầm cảm, mất ngủ, nổi mẩn da, tổn thương gan, có ý định tự tử. Không nên dùng ở người bị trầm cảm hoặc các bệnh tâm thần khác.
- Etravirine (intelence): Gây phát ban da.
- Rilpivirine (edurant, odefsey): Phát ban da, tổn thương gan, trầm cảm, khó ngủ, nổi mẩn da, có ý định tự tử… Không nên sử dụng ở những người có vấn đề về gan, hoặc ở phụ nữ có CD4 lớn hơn 250 hoặc ở nam giới có CD4 lớn hơn 400. Sủ dụng cùng với thức ăn.
3. Thuốc ức chế protease (PI) trị HIV
Các chất ức chế protease (PI) ngăn không cho HIV nhân lên bằng cách ngăn chặn một loại enzyme gọi là protease. HIV cần enzym này để tái tạo, gồm các thuốc:
- Aatazanavir (reyataz, evotaz): Gây buồn nôn, nôn, tiêu chảy, vàng da, sỏi mật và thận, tổn thương gan, nổi mẩn da, tăng cholesterol, thay đổi nhịp tim. Người bệnh nên dùng thuốc cùng với thức ăn.
- Darunavir (prezista): Buồn nôn, nôn, tiêu chảy, nổi mẩn da, tăng cholesterol xấu, tổn thương gan. Nên dùng thuốc cùng với thức ăn.
- Lopinavir/ritonavir (kaletra): Gây buồn nôn, nôn, tiêu chảy, nổi mẩn da, tăng cholesterol, tổn thương gan. Nên dùng thuốc cùng với thức ăn.
- Ritonavir (norvir): Buồn nôn, nôn, thay đổi khẩu vị. Nên dùng thuốc cùng với thức ăn. Ở liều thấp để tăng cường các loại thuốc PI (thuốc ức chế protease)khác, không gây ra các bất lợi này.
4. Thuốc ức chế integrase
Thuốc ức chế Integrase ngăn chặn DNA HIV được tích hợp vào ADN của người, gồm:
- Cabotegravir: Sốt, mệt mỏi, phồng rộp, đau cơ hoặc khớp, sưng ở mắt, miệng và mặt. Những người có tiền sử nhiễm virus viêm gan B hoặ c C hoặc những người có những thay đổi nhất định trong xét nghiệm chức năng gan có thể có nhiều khả năng phát triển những thay đổi mới hoặc trầm trọng hơn.
- Cabotegravir và rilpivirine (cabenuva): Phản ứng tại chỗ tiêm, sốt, mệt mỏi, nhức đầu, đau cơ xương, buồn nôn, rối loạn giấc ngủ, chóng mặt, phát ban.
- Dolutegravervir (tivicay, dovato, triumeq): Mất ngủ, trầm cảm, nổi mẩn da, có ý định tự tử, tăng cân.
- Elvitegravervir (vitekta): Mất ngủ, buồn nôn, tiêu chảy, trầm cảm, nổi mẩn da, có ý định tự tử, tăng cholesterol, tăng cân.
5. Một số thuốc khác
- Chất ức chế hợp nhất (FI) như enfuvirtide (fuzeon): Để tái tạo thành công, HIV phải xâm nhập vào một tế bào trong một quá trình gọi là hợp nhất. Thuốc ức chế hợp nhất là loại thuốc ngăn không cho HIV xâm nhập vào các tế bào bạch cầu, được gọi là tế bào CD4. Tác dụng phụ là đỏ, ngứa, sưng, đau hoặc nổi cục cứng ở chỗ tiêm.
- Chất ức chế xâm nhập như maraviroc (selzentry): Phát ban, phản ứng quá mẫn, tổn thương gan. Thực hiện xét nghiệm để xác định xem tế bào CD4 của bạn có thụ thể phù hợp hay không.
- Chất ức chế Capsid như lenacapavir (sunlenca): Buồn nôn, đỏ hoặc đau ở chỗ tiêm.
Lưu ý, người bệnh không được tự ý ngừng thuốc. Khi gặp bất kỳ triệu chứng khó chịu nào trong quá trình dùng thuốc, cần thông báo cho bác sĩ biết để được tư vấn cách ứng phó thích hợp. Trong một số trường hợp nếu tác dụng phụ nặng nề cần phải thay thế thuốc ARV khác phù hợp hơn.
HIV có thể làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường
Những người nhiễm HIV có nhiều khả năng mắc bệnh đái tháo đường cao hơn những người không nhiễm HIV...
Một nghiên cứu cho thấy, người nhiễm HIV tăng nguy cơ mắc đái tháo đường gấp 4 lần so với người không nhiễm HIV. Bệnh đái tháo đường là một vấn đề sức khỏe phổ biến hiện nay. Có nhiều nguyên nhân khiến bạn dễ mắc bệnh này, bao gồm tiền sử gia đình, thừa cân và lớn tuổi... nhưng một số người nhiễm HIV mắc bệnh đái tháo đường ở độ tuổi trẻ hơn mặc dù không bị thừa cân...
Nguyên nhân làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường ở người nhiễm HIV
Ngày nay do chẩn đoán và điều trị HIV tốt hơn nên người nhiễm HIV có thể sống lâu hơn. Một số ước tính cho thấy trung bình những người được điều trị HIV sớm có thể sống lâu như những người không nhiễm HIV. Khi những người nhiễm HIV sống lâu hơn, cũng làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường như những người khác.
HIV làm tăng nguy cơ mắc đái tháo đường type 2.
Tuy nhiên, có một số nguyên nhân khiến người nhiễm HIV tăng nguy cơ mắc đái tháo đường hơn, đó là:
- Tác dụng phụ của một số loại thuốc điều trị HIV có thể gây ra lượng đường trong máu cao (tăng đường huyết). Những người dùng một số loại thuốc này có thể tăng đường huyết và mắc bệnh đái tháo đường cao hơn. May mắn thay, các loại thuốc điều trị HIV mới hơn dường như không có nguy cơ này.
- Một số loại thuốc dùng để điều trị HIV có thể khiến người bệnh tăng cân. Tăng cân làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường, do đó có thể khiến người nhiễm HIV có nguy cơ cao mắc đái tháo đường hơn.
- Nhiều người nhiễm HIV cũng bị nhiễm viêm gan C. Viêm gan C cũng có liên quan đến bệnh đái tháo đường.
- Người nhiễm HIV bị viêm do nhiễm trùng. Tình trạng viêm này có thể đóng một vai trò trong sự phát triển của bệnh đái tháo đường.
Do đó, người nhiễm HIV nên kiểm tra lượng đường trong máu trước khi bắt đầu điều trị HIV và kiểm tra thường xuyên để đảm bảo đường huyết luôn ở mức khỏe mạnh.
Nếu bạn bị nhiễm HIV có lượng đường trong máu cao hoặc mắc đái tháo đường, có thể ảnh hưởng đến việc điều trị, vì có thể cần phải tránh một số loại thuốc điều trị HIV gây tăng đường huyết.
Một số loại thuốc thông dụng trị đái tháo đường như metformin có thể vẫn kiểm soát được lượng đường trong máu, nhưng những người nhiễm HIV có thể không đáp ứng với việc điều trị đái tháo đường giống như những người không nhiễm HIV.
Một số loại thuốc dùng để hạ đường huyết cũng có thể tương tác với các phương pháp điều trị dùng để kiểm soát HIV và có thể gây tăng cân hoặc các tác dụng không mong muốn khác. Do đó, người bệnh cần trao đổi với bác sĩ để biết cách hạn chế những rủi ro này và tìm ra sự kết hợp các phương pháp điều trị phù hợp.
Phòng chống bệnh đái tháo đường như thế nào?
Đái tháo đường là một căn bệnh phát triển khi lượng đường trong máu quá cao. Glucose đến từ sự phân hủy của thực phẩm chúng ta ăn và là nguồn năng lượng chính của cơ thể.
Theo thời gian, bệnh tiểu đường có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, bao gồm bệnh tim, đột quỵ, bệnh thận, các vấn đề về mắt và tổn thương thần kinh.
Các triệu chứng của bệnh đái tháo đường có thể bao gồm:
Cơn khát tăng dần Đi tiểu thường xuyên Cơn đói tăng lên Giảm cân bất thường Mệt mỏi Mờ mắt Ngứa ran hoặc tê ở tay hoặc chân Vết thương không lành...
Những người có triệu chứng của bệnh đái tháo đường nên đi xét nghiệm bệnh. Nếu bạn bị nhiễm HIV và lo lắng về bệnh đái tháo đường, nên trao đổi với bác sĩ về nguy cơ này và những gì bạn có thể làm để bảo vệ sức khỏe.
Bạn có thể thực hiện các bước sau để giảm nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường type 2:
- Duy trì cân nặng khỏe mạnh: Nếu bạn thừa cân, hãy giảm cân và duy trì cân nặng đó.
- Ăn uống lành mạnh: Ăn nhiều loại thực phẩm lành mạnh và hạn chế thực phẩm giàu chất béo, đường và muối.
- Liên tục di chuyển: Đặt mục tiêu dành 30 phút hoạt động thể chất vào hầu hết các ngày trong tuần.
- Uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ...
Đồng nhiễm HIV và viêm gan C gây biến chứng nặng, tỉ lệ tử vong cao Một người đồng nhiễm HIV và viêm gan C có thể làm tăng nhanh tỉ lệ xơ hóa tiến triển. Ngay cả ở những người bệnh đồng nhiễm HIV và viêm gan C đã được điều trị thuốc ARV và có tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế thì nguy cơ xơ gan mất bù vẫn cao hơn ở người chỉ nhiễm viêm...