Các tác giả khi viết SGK đều có sự kế thừa
Góp ý cho sách giáo khoa (SGK) là cần thiết, nhưng phải có trao đổi, làm rõ vì có một số thông tin thiếu chính xác, thậm chí là bịa hoàn toàn.
Giờ học tiếng Việt của học sinh Trường tiểu học Đông La (Đông Hưng, Thái Bình)
Đó là ý kiến của PGS.TS Đỗ Ngọc Thống – Chủ biên chương trình môn Ngữ văn – Chương trình Giáo dục phổ thông mới trước nhận xét gay gắt về một số bài tập đọc trong SGK tiếng Việt lớp 1 ( Bộ sách Cánh Diều như: dạy trẻ con thói lười nhác, thủ đoạn và khôn lỏi…).
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống viện dẫn, chẳng hạn bài học “Chữ số 4″ với ví dụ về “Bốn cái làn” được lan truyền trên mạng xã hội những ngày qua là sai hoàn toàn bởi thực chất không cuốn sách Tiếng Việt lớp 1 nào có nội dung như vậy.
Trước ý kiến về việc sách đưa nhiều ngữ liệu là truyện ngụ ngôn được dịch từ nước ngoàicó nội dung phản giáo dục; PGS Đỗ Ngọc Thống cho rằng, truyện nếu lấy từ tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng nước ngoài thì sao có thể bảo là phản giáo dục được?
Chẳng qua là truyện ngụ ngôn thường có nhiều ý nghĩa và có thể suy luận theo nhiều cách hiểu khác nhau. Và nếu cứ suy luận kiểu như thế thì tất cả các câu chuyện cổ đều sẽ bị phê phán.
Chẳng hạn, cũng đã có người cho rằng dạy truyện “Em bé thông minh” là dạy cho HS thói khôn vặt, láu cá; rằng ông lão trong truyện của Puskin (Ông lão đán.h cá và con cá vàng) sao ngu thế, để mụ vợ sai khiến mãi.
Sao cô Tấm có thể làm những điều ác như thế ? Sao Thạch Sanh khờ dại thế, để Lý Thông lừa hết lần này đến lần khác?… Ngay cả truyện 2 con dê đi qua cầu không nhường đường nhau để phải rơi tõm xuống suối trong sách cũ mà nhiều người khen, vẫn có thể suy luận sao lại dạy cho trẻ con cái thói ương bướng, ích kỉ và liều lĩnh; không biết nhường nhịn nhau để dẫn đến hậu quả nghiêm trọng…
“Tôi nghĩ, việc đưa 1 câu chuyện vào dạy cho trẻ thế nào còn phụ thuộc vào câu hỏi hướng dẫn đọc và cách dạy của thầy cô giáo. Cũng truyện ấy nhưng giáo viên hướng học sinh hiểu thế nào cho đúng, cho nhân hậu, có ý nghĩa giáo dục cao là do tấm lòng, từ nhận thức, hiểu biết của người thầy…
Trong chuyện này, nếu có hạn chế thì chỉ là các tác giả khi phỏng theo, biên tập lại cần chau chuốt hơn để câu văn hay, tránh thô thiển dễ gây hiểu nhầm” – PGS.TS Đỗ Ngọc Thống trao đổi.
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống
Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, truyện ngụ ngôn được các tác giả đưa vào SGK, trước hết là phục vụ mục đích học âm, vần, học tiếng Việt… Tất nhiên, khi dẫn vào SGK phải có lựa chọn, cân nhắc nội dung.
Video đang HOT
Cần giáo dục cái đẹp, cái tích cực; nhưng nêu lên cái tiêu cực cũng là để nhận biết cái xấu và hướng tới cái đẹp, cái tích cực. Khi đưa vào sách, thì nhiệm vụ của giáo viên là giáo dục cho học sinh hướng đến cái tốt, cái đẹp, tránh những thói hư, tật xấu.
Nhiều người nói sao không lấy ca dao, tục ngữ mà dạy. Thứ nhất trong sách cũng đã có ca dao tục ngữ; thứ hai chọn ngữ liệu nào trước hết phải phục vụ nhiệm vụ và yêu cầu là rèn luyện các âm, vần đang học…
Vì thế, không phải ca dao, tục ngữ nào cũng đáp ứng được tất cả các yêu cầu nêu trên. Vả lại ca dao, tục ngữ cũng đâu phải luôn dễ hiểu, các câu chuyện về loài vật thường phù hợp hơn với trẻ đầu cấp tiểu học” – PGS Đỗ Ngọc Thống trao đổi.
Cũng theo PGS.TS Đỗ Ngọc Thống, thực ra các tác giả khi viết SGK đều có sự kế thừa các bài đọc hay, hấp dẫn có tính giáo dục của những quyển sách truyền thống.
Một số người nêu lên các bài văn trong sách cũ, tôi thấy trong sách mới cũng có những bài như thế. Ngoài ra các tác giả còn đưa thêm một số bài khác để cập nhật với ngôn ngữ nói và viết của hiện nay.
Trước đây, do điều kiện chiến tranh, trường lớp khó khăn, lớp 1 cũng chỉ học 1 buổi/ngày; mỗi tuần chỉ học 7-8 tiết tiếng Việt, có khi ít hơn. Ngày nay xã hội phát triển, có điều kiện, học sinh học 2 buổi/ngày, số tiết dành cho học tiếng Việt tăng lên, các bài học do vậy cũng phong phú hơn và vì thế cần huy động thêm một số ngữ liệu khác.
Bên cạnh các bài kế thừa còn có thêm một số bài đọc mới nên nhiều người thấy khác với sách thời mình đi học, thấy hình như các bài hay trong sách cũ bị bỏ hết.
“Mỗi cuốn sách đều có những ưu điểm và hạn chế. Không nên chỉ nhìn thấy một vài thiếu sót rồi vội vã khái quát, phủ nhận sạch trơn toàn bộ cuốn sách”- PGS. Đỗ Ngọc Thống nhận xét.
Tác giả lên tiếng về SGK Tiếng Việt 1 b.ị ch.ê dạy học sinh 'lười nhác, thủ đoạn'
Trước nhận xét gay gắt về một số bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt lớp 1, bộ sách Cánh diều như: 'bịa đặt', 'dạy trẻ con thói lười nhác và thủ đoạn'... GS Nguyễn Minh Thuyết - chủ biên sách cho hay: 'Chúng tôi đã làm rất kỹ'.
Bộ sách này của nhóm tác giả Nguyễn Minh Thuyết (Tổng Chủ biên kiêm Chủ biên) - Hoàng Hòa Bình - Nguyễn Thị Ly Kha - Lê Hữu Tỉnh biên soạn và được NXB ĐH Sư phạm TP.HCM ấn hành (2020).
Một số bài tập đọc trong cuốn Tiếng Việt 1 của bộ Cánh diều đã được đưa ra "mổ xẻ" . Bài tập đọc về lừa và ngựa bị một số ý kiến cho là dạy trẻ con thói lười nhác, thủ đoạn.
Một bài tập đọc b.ị ch.ê
Bài đọc Ve và gà thì bị chỉ trích rằng bịa, La Phông-ten không có câu truyện này.
Hay như bài tập đọc Cua, cò và đàn cá được cho là... dạy trẻ con nói dối.
Còn bài đọc "Họp lớp" cũng bị nhận xét rằng trẻ con sẽ chẳng hiểu gì, vì lớp 1 chưa có khái niệm về chuyện này.
Đã có những bình luận khá nặng lời về các bài đọc này. Thậm chí, một phụ huynh đã viết thư gửi tới chủ biên của bộ SGK Cánh diều - GS Nguyễn Minh Thuyết, cho rằng", những nội dung như thế này xuất hiện trong sách khoa lớp 1 là rất đáng buồn".
"Thánh nhân có câu "Nhân chi sơ, tính bản thiện". Những đứ.a b.é được dạy những điều như câu chuyện hai con ngựa (trong sách lớp 1, cải cách có nhiều bài như thế) thì mục đích của nền giáo dục là gì?
Chúng ta dạy trẻ con để phòng cái ác, cái xấu hay là dạy chúng làm cái xấu, cái ác từ khi còn bé. Hay là chúng ta dạy trẻ con những kỹ năng để tồn tại trong cái xã hội đương đại ở Việt Nam từ khi còn bé?..." - vị phụ huynh này viết trong thư.
"Chúng tôi đã làm rất kỹ"
GS Nguyễn Minh Thuyết cho biết đã tiếp nhận những nhận xét đó, nhưng nhóm biên soạn có quan điểm của mình. Ông cũng cho rằng "Chúng tôi đã làm rất kỹ".
Với bài tập đọc "Hai con ngựa" bị cho rằng là câu chuyện bịa, ông Thuyết cho biết bài tập đọc này được viết lại (phỏng theo) truyện "Ngựa đực và ngựa cái" của Lev Tolstoy, nhà văn Nga, do Thúy Toàn dịch, in trong cuốn "Kiến và bồ câu". Cốt truyện được giữ nguyên. Nhưng truyện dài nên phải chia làm 2 phần, có đán.h số 1, 2, phần 2 được học ngay sau phần 1.
Về nhân vật, tác giả phải sửa "ngựa đực, ngựa cái" thành "ngựa tía, ngựa ô" vì học sinh đến tuần đó chưa học các vần "ưc", "ai" và cũng vì không muốn nói chuyện "đực, cái". Trong truyện của Lev Tolstoy, ngựa cái lười biếng xui ngựa đực không đi cày, nếu chủ quật roi thì tung vó đá lại. Ngựa đực làm theo lời ngựa cái. Bác nông dân thấy ngựa đực ương bướng, bèn đóng ngựa cái vào vai cày. Những chi tiết này đã được tác giả sửa lại cho nhẹ nhàng nhưng căn bản diễn biến câu chuyện vẫn như truyện của L. Tolstoy.
"Về ý nghĩa, một nhà văn lớn như Lev Tolstoy không bao giờ viết một truyện tầm phào hoặc phản giáo dục. Ý nghĩa của câu chuyện này là: xui người khác làm bậy thì chính mình sẽ chịu hậu quả" - ông Thuyết giải thích.
Bài tập đọc "Ve và gà" cũng được viết lại (phỏng theo) truyện "Ve và kiến" của La Fontaine, nhà văn Pháp. Truyện dài nên cũng phải chia làm 2 phần, có đán.h số 1, 2, dạy liền nhau. Tác giả SGK phải đổi nhân vật "kiến" thành "gà" vì đến lúc này học sinh chưa học vần "iên", nhưng cốt truyện giữ nguyên.
"Các bài đọc trên chỉ sửa tên nhân vật cho phù hợp với các chữ, các vần học sinh đã được học và chưa được học nhưng đã được tác giả thận trọng ghi là "phỏng theo" và đưa tên người kể lại để chịu trách nhiệm.
Những người viết bài trên mạng để chỉ trích sách của chúng tôi cố ý chỉ chụp ảnh phần 1, cắt nó ra khỏi phần 2 để người đọc cả tin tin vào những lời mà họ nói" - ông Thuyết thông tin.
Một số ý kiến thắc mắc khi nhóm tác giả sách sử dụng từ "nhá" - nhá cỏ, nhá dưa chứ không sử dụng từ "nhai" trong bài tập đọc "Thỏ thua rùa". Các ý kiến này cho rằng nhóm tác giả đã sử dụng phương ngữ, học sinh không hiểu.
"Theo chương trình thì đến phần có bài tập đọc này học sinh chưa học đến vần "ai", nên tác giả sách sử dụng từ "nhá". Từ này hoàn toàn không phải là phương ngữ mà là từ phổ thông, có trong Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê.
Tương tự với những thắc mắc về việc sao không sử dụng từ "hiên" mà lại là từ "hè"... Hè hay hiên thì cũng là từ phổ thông, đều có mặt trong Từ điển Hoàng Phê" - ông Thuyết lý giải.
"Trong sách cũng có một số từ địa phương như ba - má. Sách dạy cho học sinh cả nước nên tác giả xây dựng 2 tuyến nhân vật: Học sinh sống ở các tỉnh phía Bắc thì gọi bố gọi mẹ, học sinh sống ở các tỉnh phía Nam thì gọi ba gọi má...".
Ông Thuyết cũng đưa quan điểm về ý nghĩa của các bài đọc. "Có thắc mắc rằng lấy đâu ra chuyện chó xù ra ngõ gặp sư tử. Nếu cứ theo tư duy kiểu này, thì các câu chuyện cổ tích, thần thoại phải bỏ đi hết hay sao?
Hay bài đọc Cua, cò và đàn cá bị cho là dạy học sinh khôn lỏi. Đây là bài đọc theo truyện dân gian Việt Nam. Mà truyện dân gian vốn dĩ sâu sắc lắm, khai thác như thế nào là do tâm địa mỗi người. Người này cho rằng bài này dạy học sinh khôn lỏi, nhưng người kia lại rút ra được bài học cảnh giác. Bây giờ người xấu nhiều, dạy trẻ con phải cảnh giác không thừa" - ông Thuyết nói.
"Hay như "nhà nghỉ" cũng là một từ Tiếng Việt, trẻ con có quyền biết nghĩa của từ này, sao lại cứ cho rằng nó xấu?".
Giảng cho học sinh hiểu là nhiệm vụ của giáo viên
Ông Thuyết cũng cho biết các bài đọc là để học sinh ôn chữ, ôn vần. "Chúng ta không nên lo học sinh không hiểu, bởi dạy cho học sinh hiểu là nhiệm vụ của giáo viên chứ các em không phải tự mình làm việc với quyển SGK. Giáo viên sẽ giảng cụ thể cho học sinh ý nghĩa của từ ngữ trong các bài đọc".
Khẳng định rằng các bài đọc đều đã được nhóm biên soạn cân nhắc, viết đi viết lại, ông Thuyết lý giải thêm về các ngữ liệu được đưa vào SGK, có mấy cách dẫn văn bản đọc, viết: "trích" - bớt chữ của văn bản để phù hợp với thời lượng học. Ở lớp 1 không sử dụng nhiều dạng này vì có quy định về số lượng chữ cho mỗi bài đọc; "theo" - dẫn lại tác phẩm và có sửa chữa: "phỏng theo" - dựa theo ý tứ của tác phẩm gốc để viết lại.
"Những chữ, từ đã học được lặp đi lặp lại qua các bài đọc để học sinh không quên chữ. Khi tập huấn cho giáo viên, chúng tôi cũng đã nhấn mạnh vào yêu cầu phân hóa đối với học sinh. Ví dụ với những học sinh tiếp thu nhanh thì từ a, từ b có thể học trong 2 tiết, với các em chậm hơn thì học trong 3 tiết. Trong phân bổ chương trình có tới 88 tiết dự trữ (mềm), là những tiết ôn tập, góc sáng tạo, đọc sách báo... Nếu học sinh đọc viết chưa thông thì cứ lấy số tiết dự trữ này ra để dạy cho các em.
Ngay trong một lớp, khả năng của học sinh cũng khác nhau. Nếu bài đọc quá ngắn, học sinh khá giỏi sẽ không phát triển được hết khả năng. Như vậy, với học sinh yếu hoặc gặp khó khăn, các em chỉ cần đọc được 1, 2 câu có các chữ hoặc vần mới học. Sau một thời gian, những học sinh này hoà được vào tiến độ chung, các em sẽ đọc được cả bài như các bạn khác.
Chương trình Tiếng Việt trước đây có 10 tiết/ tuần, nay là 12 tiết/tuần. Trong khi yêu cầu về mức độ đạt được vẫn như trước thì tăng tiết chính là để giảm tải chưa không phải quá tải, phụ huynh không nên lo lắng mà tạo áp lực cho con em mình" - ông Thuyết khẳng định.
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 mới: Đang trang 32 lại đến... trang 17 Bộ sách giáo khoa (SGK) lớp 1 theo chương trình Cánh Diều được nhiều tỉnh thành, nhiều trường lựa chọn nhất cho năm học 2020 - 2021. Thế nhưng, năm học mới vừa diễn ra gần một tháng, đã có nhiều ý kiến phụ huynh phản hồi về việc có cuốn bị in lỗi hết sức cẩu thả, như đán.h đố học sinh....