Báo động rối loạn lo âu ở người trẻ
Khi đối mặt với áp lực trong công việc, cuộc sống và học tập, nhiều người trẻ thường lo lắng thái quá đến những chuyện ở tương lai hoặc suy nghĩ tiêu cực về sai lầm trong quá khứ.
Đáng báo động là từ những lo lắng vô lý dần tích tụ thành rối loạn lo âu – một trong những chứng bệnh rối loạn tâm lý rất phổ biến hiện nay.
Chăm sóc cho bệnh nhân bị stress, rối loạn lo âu tại Viện Sức khỏe tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai). Ảnh: Dương Ngọc
Sinh bệnh do lo lắng thái quá
Từ khi chuyển cấp, học tại một trường chuyên khiến N.V.M (15 tuổ.i ở Hà Nội) chỉ biết “lao đầu” vào việc học. M luôn lo sợ bản thân bị rơi xuống nhóm cuối lớp, bị bạn bè và bố mẹ nghĩ mình kém cỏi. Vì vậy, em càng ra sức học suốt ngày đêm, không còn quan tâm đến những việc xung quanh. Càng ngày, M càng cảm thấy lo lắng, căng thẳng, mệt mỏi, thiếu ngủ và luôn trong tình trạng ngủ không sâu giấc. Khi thấy con sụt cân không rõ lý do, bố mẹ đã đưa M đi khám. Tại khoa Sức khỏe v.ị thàn.h niê.n (Bệnh viện Nhi trung ương), các bác sĩ chẩn đoán, M bị rối loạn lo âu liên quan đến những áp lực về học tập.
Tương tự, anh Đ.M.H (30 tuổ.i ở Hà Nội) là tài xế của một hãng taxi công nghệ, luôn có một nỗi lo thường trực là sẽ gặp phải ta.i nạ.n giao thông trên đường. Nỗi lo này xuất hiện kể từ thời điểm người thân của anh mất vì ta.i nạ.n giao thông. Chính sự lo lắng thái quá đã đẩy anh H rơi vào chứng bệnh rối loạn lo âu.
Bệnh viện Tâm thần ban ngày Mai Hương cũng thường xuyên tiếp nhận nhiều người trẻ, trong đó có cả học sinh, sinh viên, đến khám và được phát hiện mắc chứng rối loạn lo âu.
Tiến sĩ – bác sĩ Trần Thị Hồng Thu, Phó Giám đốc bệnh viện cho biết, bình thường ai cũng có lúc cảm thấy lo lắng, đặc biệt là tình trạng lo âu thường xuất hiện vào những thời điểm cuộc sống gặp phải nhiều biến cố, áp lực… Các triệu chứng của lo âu có thể bao gồm: Liên tục lo lắng, ám ảnh về mối quan tâm nhỏ hay lớn, bồn chồn, mệt mỏi, khó tập trung tâm trí, khó chịu, cảm thấy bối rối hoặc dễ dàng bị giật mình, khó ngủ, khó thở hoặc nhịp tim nhanh…
“Một số lo lắng là bình thường, nhưng nếu cảm thấy lo lắng quá nhiều và tăng lên theo thời gian kèm các dấu hiệu, như: Cảm thấy chán nản, có rắc rối với rượu hoặc m.a tú.y, có vấn đề sức khỏe tâm thần khác cùng với lo âu hay có ý nghĩ t.ự t.ử thì nên đi khám chuyên khoa”, Tiến sĩ – bác sĩ Trần Thị Hồng Thu lưu ý.
Tăng nguy cơ có ý định t.ự sá.t
Ngoài yếu tố di truyền, các chuyên gia y tế cũng cho rằng, hiện nay, do những căng thẳng, stress, áp lực trong cuộc sống khiến con người càng dễ mắc phải chứng bệnh rối loạn lo âu.
Đáng lo ngại, nếu bệnh không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ dẫn đến suy giảm về sức khỏe thể chất (tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, nội tiết…), ảnh hưởng đến các mối quan hệ xã hội nghề nghiệp, tăng nguy cơ lạm dụng rượu và các thuố.c khác vì bệnh nhân thường tự dùng để giảm các triệu chứng. Nguy hiểm hơn, nếu không được giải tỏa, bệnh nhân suy nghĩ lặp đi lặp lại về cái chế.t và lựa chọn việc t.ự t.ử. Người mắc rối loạn lo âu tăng nguy cơ có ý tưởng t.ự sá.t lên hơn 2,3 lần so với bình thường.
Video đang HOT
Để nhận diện và có giải pháp điều trị sớm, theo bác sĩ chuyên khoa II Bùi Văn Lợi, Phòng Điều trị rối loạn liên quan stress và tìn.h dụ.c, Viện Sức khỏe tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai), các triệu chứng cơ thể của lo âu rất phong phú, bao gồm: Khó thở, khó chịu ở ngực hoặc bụng; buồn nôn, đi ngoài, đi tiểu nhiều lần, các cơn đỏ mặt, ớn lạnh, tê bì, tê cóng hoặc cảm giác kim châm yếu, căng cơ hoặc đa.u đớ.n, không đứng vững và cảm giác sắp ngất.
Còn về mặt hành vi, người mắc rối loạn lo âu thường biểu cảm trạng thái sợ hãi, thu rút, né tránh, dễ cáu bẳn, bất động, thở nhanh, khó nói; tăng nhạy cảm, giảm tập trung chú ý, sợ mất kiểm soát hoặc hóa điên. Người bệnh thường suy nghĩ mọi việc theo hướng trầm trọng hóa, thảm họa hóa vấn đề…
Trạng thái lo âu khiến người bệnh luôn căng thẳng, cáu kỉnh, cảm giác tù túng, đang bên bờ vực và không thể thư giãn. Trạng thái này có hoặc không liên quan rõ rệt với sang chấn tâm lý. Điều đáng lo ngại là các rối loạn này không dần mất đi khi sang chấn tâm lý không còn.
Chính vì vậy, bác sĩ chuyên khoa II Vũ Thị Lan, Viện Sức khỏe tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai) đưa ra lời khuyên, mỗi người cần duy trì hoạt động thể chất, phát triển thói quen tập thể dục đều đặn hằng ngày tốt cho sức khỏe thể chất và tâm thần. Ngoài ra, tránh sử dụng rượu và các chất kích thích, như: Cà phê, thuố.c l.á, chất gây nghiệ.n khác; quản lý stress và có các phương pháp thư giãn, như: Yoga, thiền định…
Đồng thời, tạo thói quen đi ngủ và thức giấc đúng giờ, có đủ số lượng và chất lượng giấc ngủ. Kèm theo đó là chế độ ăn lành mạnh, đủ chất dinh dưỡng và tham gia các hoạt động xã hội. Khi có những dấu hiệu lo âu tột độ, người bệnh không nên bỏ qua, xem nhẹ mà nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được kiểm tra, đán.h giá mức độ và lên phác đồ điều trị phù hợp, tránh gây ra những hậu quả không đáng có.
Lưu ý tác dụng phụ khi dùng thuố.c trị mất ngủ
Khi bị mất ngủ sẽ rất mệt mỏi vào ngày hôm sau. Do đó người mất ngủ kéo dài thường tìm đến các phương pháp giúp ngủ ngon, trong đó có giải pháp dùng thuố.c ng.ủ.
Tuy nhiên việc dùng thuố.c ng.ủ khá phức tạp...
1. Những nguy cơ khi bị mất ngủ
Mất ngủ là một rối loạn giấc ngủ phổ biến hiện nay. Người bị mất ngủ sẽ khó vào giấc, ngủ không sâu/khó duy trì giấc ngủ... Ngủ đủ giấc là rất quan trọng đối với cả sức khỏe thể chất và tinh thần.
Khi mất ngủ, người bệnh sẽ gặp phải các nguy cơ:
- Tăng nguy cơ gặp ta.i nạ.n do lái xe trong trạng thái buồn ngủ; thiếu tập trung trong công việc.
- Suy giảm khả năng miễn dịch, tăng nguy cơ ung thư: Thiếu ngủ kéo dài có thể phá vỡ hệ thống miễn dịch đồng thời còn làm giảm hoạt động của các tế bào giế.t tự nhiên và làm tăng 36% nguy cơ ung thư đại trực tràng.
- Gây các rối loạn tâm lý, tâm thần: Thiếu ngủ một đêm sẽ khiến cơ thể ủ rũ và cáu kỉnh vào ngày hôm sau. Người mất ngủ mạn tính có thể dẫn đến các rối loạn tâm thần như trầm cảm hay lo âu. Thiếu ngủ cũng làm tăng nguy cơ sa sút trí tuệ.
- Tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường: Các nghiên cứu cho thấy những người thường ngủ ít hơn 5 giờ mỗi đêm làm tăng nguy cơ mắc bệnh đái tháo đường gấp 3 lần so với người ngủ đủ giấc.
- Tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch: Thiếu ngủ kéo dài có liên quan đến tăng nhịp tim, tăng huyết áp và tăng nồng độ các chất liên quan đến quá trình viêm. Từ đó làm tăng gánh nặng cho tim và làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch.
Mất ngủ sẽ gây mệt mỏi, mất tập trung vào ngày hôm sau.
2. Các loại thuố.c trị mất ngủ
Các nhóm thuố.c ng.ủ thường gặp bao gồm:
- Nhóm benzodiazepines: Là loại thuố.c a.n thầ.n gây ngủ khá quen thuộc. Các hoạt chất thuố.c thường dùng là diazepam, bromazepam, clonazepam...
- Nhóm barbiturate: Là các thuố.c phenobarbital (gardenal), pentobarbital (nembutal). Loại thuố.c này hiện nay ít được dùng để an thần, gây ngủ do có nhiều tác dụng không mong muốn hơn.
- Thuố.c ng.ủ "Z - drugs": Là các thuố.c zolpidem (stilnox, ambien), eszopiclone (lunesta), zaleplon (sonata). Đây là loại thuố.c được ưa dùng trong rối loạn giấc ngủ nhờ tác dụng gây ngủ êm dịu và ít khi xảy ra nhờn thuố.c và hội chứng cai thuố.c khi ngừng thuố.c.
- T huốc kháng histamine H1 : Hai loại thuố.c kháng histamine như promethazine và diphenhydramin có tác dụng an thần đáng kể nên có thể cải thiện tình trạng mất ngủ, khó ngủ, ngủ không sâu giấc và ngủ chập chờn. Chính vì thế trong một số trường hợp còn được dùng để điều trị chứng mất ngủ.
- T huốc chống trầm cảm gây ngủ: Một số thuố.c trong nhóm này như amitriptylin, sertraline....
Ngoài các thuố.c tây y, thì một số sản phẩm từ thảo dược cũng có khả năng chữa mất ngủ như:
- R otudin: Được chiết xuất từ lá vông nem chữa chứng mất ngủ. Lá vông nem có tác dụng gây ngủ, hạ huyết áp, hạ thân nhiệt, trấn tĩnh và ức chế hệ thần kinh trung ương. Mặc dù là sản phẩm chiết xuất từ lá vông nem, nhưng rotudin cũng là thuố.c qua kê đơn.
- C ây lạc tiê n: Sử dụng thảo dược này có thể giúp ngủ ngon, giảm tình trạng giấc ngủ đến muộn, ngủ không sâu giấc và thường xuyên thức giấc giữa đêm.
3. Thận trọng cần ghi nhớ khi dùng thuố.c ng.ủ
- Ở liều dùng phù hợp, thuố.c ng.ủ có thể mang lại lợi ích trên những người bị lo âu, căng thẳng hoặc rối loạn giấc ngủ kéo dài. Tuy nhiên, do thuố.c ng.ủ có nhiều loại và dùng cho những chứng mất ngủ khác nhau, nên việc lựa chọn thuố.c cho từng trường hợp cũng khác nhau. Do đó, người bệnh không nên tự ý sử dụng thuố.c trị mất ngủ.
- Hầu hết các loại thuố.c ng.ủ đều có những tác dụng phụ đáng kể, nên trước khi dùng thuố.c, bệnh nhân cần đi khám tại chuyên khoa thần kinh hoặc tâm thần. Dựa vào các triệu chứng lâm sàng và các kết quả cận lâm sàng, bác sĩ sẽ cân nhắc giữa lợi và hại của việc dùng thuố.c rồi mới kê đơn.
Hâu hết các thuố.c ng.ủ đều gây ra tác dụng phụ khá nghiêm trọng, chỉ sử dụng khi có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Các tác dụng phụ của thuố.c có thể gặp như:
- Nhóm b enzodiazepines : Gây cảm giác uể oải mệt mỏi vào ngày hôm sau, khả năng phối hợp kém; cảm giác hoang mang, lo lắng, chán nản; đau đầu, chóng mặt, gây vấn đề rối loạn thị lực...
Hơn nữa, đây là nhóm thuố.c có thể gây nghiệ.n, chỉ định sử dụng ngắn, không quá một tuần trong đợt điều trị. Bệnh nhân mất ngủ rất dễ lạm dụng thuố.c và sử dụng lâu dài, có thể dẫn đến tình trạng nghiệ.n thuố.c. Khi đã nghiệ.n thuố.c, cần phải có quá trình cai thuố.c theo hướng dẫn của bác sĩ. Nếu ngừng thuố.c thuốc đột ngột có thể dẫn đến tình trạng run, chuột rút và co giật, thậm chí là đ.e dọ.a tính mạng. Các triệu chứng cai thuố.c cũng khiến bệnh nhân rất khó chịu: Chán nản, vã mồ hôi, khó ngủ...
- Nhóm "Z - drugs": Thuố.c ít tác dụng phụ hơn, tác dụng gây ngủ êm dịu và ít khi xảy ra nhờn thuố.c và hội chứng cai khi ngừng thuố.c. Nhưng thuố.c vẫn gây ra một số triệu chứng khó chịu như: Choáng váng, khô miệng, táo bón... Thuố.c vẫn có nguy cơ gây lệ thuộc thuố.c do đó không nên tự sử dụng quá 4 tuần và chỉ sử dụng sau khi có sự đồng ý của bác sĩ chuyên khoa.
- K háng histamine H1: Tác dụng phụ có thể gặp là mệt mỏi, choáng váng, giảm khả năng phối hợp và suy giảm hệ thần kinh trung ương. Ngoài ra thuố.c cũng có thể gây táo bón, mờ mắt, khô miệng và đau đầu.
Trong quá trình dùng thuố.c ng.ủ, tuyệt đối không được uống rượu vì nguy cơ tương tác thuố.c - rượu và nguy cơ làm tăng tác dụng bất lợi của thuố.c.
Điểm chung trong tính cách của nhiều người sống thọ Những người lạc quan, tận tâm, hướng ngoại và cởi mở thường có sức khỏe tốt hơn, khả năng cao sống thọ trên 85 tuổ.i. Mọi người đều có những đặc điểm tính cách được coi là tốt và xấu. Ví dụ, lạc quan được coi là tính tốt, trong khi thù địch, hằn học là xấu. Những điều này có liên quan...