Vườn treo Babylon có thực sự tồn tại?
Theo truyền thuyết, vua xứ Babylon đã xây dựng một khu vườn treo vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên để làm quà cho hoàng hậu Amytis.
Vườn treo Babylon theo mô tả của người đời sau.
Theo truyền thuyết, vua xứ Babylon đã xây dựng một khu vườn treo vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên để làm quà cho hoàng hậu Amytis, người luôn nhớ nhà cùng những thảm thực vật xinh đẹp ở quê hương Media.
Tuy nhiên, bất chấp các văn bản cổ mô tả bức tranh sống động về hệ thống vườn treo được xem là một trong bảy kỳ quan thế giới, cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn đang cố gắng tìm bằng chứng về sự tồn tại của nó.
Công trình tình yêu
Vườn treo Babylon được cho là xây dựng vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên bởi Nebuchadnezzar II, nhà vua trị vì từ năm 605 – 562 trước Công nguyên, nổi tiếng với những dự án xây dựng kỳ vĩ, như Cổng Ishtar và các bức tường thành Babylon.
Truyền thuyết kể lại, hoàng hậu Amytis luôn ngày đêm nhớ nhung những ngọn đồi xanh mướt của quê hương mình, xứ Media (nằm ở phía Tây Bắc của Iran ngày nay). Như một cử chỉ lãng mạn lớn lao đối với người yêu, nhà vua đã cho xây dựng một hệ thống vườn treo công phu để mang đến cho người vợ một ký ức đẹp về quê hương.
Các khu vườn là một loạt bậc thang hình thành một cầu thang khổng lồ màu xanh lá cây. Tuy nhiên, hệ thống tưới mới nổi bật như một trong những khía cạnh hấp dẫn của truyền thuyết.
Theo các văn bản lịch sử, nước được hút lên từ sông và phân phối khắp các khu vườn bằng một loạt máy bơm, kênh và bể chứa. Công nghệ ấn tượng đằng sau hệ thống tưới tiêu khá bí ẩn. Làm sao nhà vua có thể lên kế hoạch cho một hệ thống phức tạp như vậy ngay từ đầu, chứ đừng nói đến việc thực hiện nó?
Cấu trúc của các bậc thang cũng là một điều kỳ diệu. Việc sử dụng các cột đá để đỡ trọng lượng của đất, cây cối và nước, đòi hỏi phải lập kế hoạch và xây dựng tỉ mỉ. Người xưa có thể đã sử dụng các lớp lau sậy và nhựa đường để chống thấm cho các khu vườn bậc thang.
Kỹ thuật phức tạp này là lý do chính khiến các nhà sử học xem Vườn treo Babylon là một trong bảy kỳ quan của thế giới cổ đại. Nhưng hệ thống vườn này nằm ở đâu? Có thực sự ở Babylon hay không?
Bản ghi chép lâu đời nhất về khu vườn được đưa ra bởi Berossus xứ Chaldea, một tu sĩ sống vào cuối thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Diodorus Siculus, một nhà sử học Hy Lạp thuộc thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, đã dựa trên nguồn tài liệu từ Berossus và mô tả khu vườn treo này như sau:
Con đường tiếp cận có độ dốc giống như một sườn đồi và một số phần của cấu trúc nhô lên từ tầng này đến tầng khác. Trên những công trình kiên cố này, đất được chất đống và trồng dày đặc đủ loại cây xanh. Nước từ sông được đưa lên rất nhiều nhưng không ai ở bên ngoài có thể nhìn thấy các máy bơm hoạt động ra sao.
Vườn treo Babylon cũng được nhà địa lý, triết học và sử học Hy Lạp, Strabo, mô tả trong quyển XVI, tác phẩm Geography (Bách khoa toàn thư về kiến thức địa lý) của ông. Ông viết: Khu vườn hình vuông, mỗi cạnh có kích thước bằng bốn plethra.
Video đang HOT
Nó bao gồm các thềm hình vòm, cái này trên cái kia và gắn vào những cây cột hình khối rỗng. Chúng được đổ đầy đất để có thể trồng những cây có kích thước lớn nhất. Các cột, khung vòm và thềm đều được xây bằng gạch nung và nhựa đường.
Hai thế kỷ sau, những mô tả tương tự được lặp lại bởi Philo xứ Byzantium, người đã biên soạn về bảy kỳ quan thế giới cổ đại trong tác phẩm De Septem Orbis Spectaculis của mình.
Vườn treo ở đâu?
Học giả Strabo (64 trước Công nguyên – 24 Công nguyên) và tác phẩm của ông có đề cập đến Vườn treo Babylon.
Trong nhiều thế kỷ, các nhà khảo cổ đã lùng sục khu vực từng được cho là nơi Vườn treo Babylon tồn tại nhưng không phát hiện manh mối nào. Một số chuyên gia nghi ngờ câu chuyện này là một “ảo ảnh lịch sử”. Tuy nhiên, nhiều nhà khảo cổ nêu vấn đề là liệu chúng ta đã tìm kiếm đúng nơi khu vườn từng tồn tại hay chưa.
Trong một nghiên cứu được công bố vào năm 2023, Tiến sĩ Stephanie Dalley – Đại học Oxford đã nêu giả thuyết rằng, các nhà sử học cổ đại đã nhầm lẫn vị trí và các vị vua của họ. Là một trong những chuyên gia hàng đầu về văn minh Lưỡng Hà, bà phát hiện các bản dịch cập nhật của một số văn bản cổ nhưng không tìm thấy thông tin nào về Vườn treo Babylon.
Dựa trên nghiên cứu của mình, Stephanie Dalley tin rằng vua Sennacherib, chứ không phải Nebuchadnezzar II, mới là người xây dựng kỳ quan này. Khu vườn thực sự nằm ở thành cổ Nineveh, gần Mosul, Iraq ngày nay, được xây dựng vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, sớm hơn gần một trăm năm so với nhận định ban đầu của các học giả.
Nếu giả thuyết của Dalley đáng tin cậy thì vườn treo được xây dựng ở Assyria, cách Babylon cổ đại khoảng 300 dặm về phía Bắc. Điều thú vị là, các cuộc khai quật gần Mosul dường như đã ủng hộ giả thuyết của TS Dalley. Các nhà khảo cổ từng tìm thấy bằng chứng về một chiếc chân vịt khổng lồ bằng đồng có thể dùng chuyển nước từ sông Euphrates vào khu vườn.
Họ cũng phát hiện một dòng chữ cho biết chiếc chân vịt này đã giúp cung cấp nước cho thành phố. Địa hình đồi núi xung quanh Mosul có nhiều khả năng nhận được nước từ hệ thống thủy lợi thuận lợi hơn so với vùng đất bằng phẳng của Babylon.
TS Dalley giải thích thêm rằng, người Assyria đã chinh phục Babylon vào năm 689 trước Công nguyên. Sau đó, Nineveh thường được gọi là “Babylon mới” và vua Sennacherib đã đổi tên các cổng thành của mình theo tên cổng vào của Babylon. Vì vậy, các nhà sử học Hy Lạp cổ đại có thể đã nhầm lẫn vị trí của chúng.
Trải qua nhiều thế kỷ, hầu hết các cuộc khai quật đều tập trung vào thành phố cổ Babylon chứ không phải Nineveh. Hiện nay, các nhà khảo cổ hy vọng từ địa điểm này, sự tồn tại của kỳ quan thế giới cổ đại trên sẽ được xác định.
4 phát minh làm thay đổi thế giới của người Sumer
Hầu hết các tri thức và công nghệ mà chúng ta đang có ngày nay đều bắt nguồn từ tận thế giới cổ đại.
Một tấm đất sét có chữ hình nêm thuộc niên đại 3100 - 3000 TCN. Ảnh: Thecollector.com
Chúng ta tự hào là thế hệ tân tiến nhất trong lịch sử nhân loại, nhưng hầu hết các tri thức và công nghệ mà chúng ta đang có ngày nay đều bắt nguồn từ tận thế giới cổ đại. Trong số này, người Sumer góp vào 4 phát minh mà nếu như không có họ, sẽ không có chúng ta ngày hôm nay.
Chữ viết
Theo nghiên cứu khảo cổ, người Sumer sinh cư tại vùng phía Nam của đồng bằng châu thổ sông Tigris và Euphrates. Vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV trước Công nguyên, họ đã có những khu vực định cư rộng lớn, kiên cố với tường cao hào sâu bảo vệ, xã hội cũng đã phân chia giai cấp với người đứng đầu là vua Sumer.
Đời sống kinh tế phát triển thịnh vượng được cho là nguyên nhân chính thúc đẩy sự ra đời của chữ viết của người Sumer. Bởi vì, trong môi trường buôn bán tấp nập và khoảng cách giao thương ngày một xa, rộng, các cư dân cần có thứ gì đó để làm tin và kết nối giao tiếp không giới hạn.
Dựa vào các phát hiện khảo cổ, chữ hình nêm đã ra đời muộn nhất vào khoảng năm 3500 trước Công nguyên. Những ký tự đầu tiên chính là hình vẽ biểu trưng cho hàng hóa và con đường phân phối chúng. Ví dụ như hình vẽ tối giản động vật, ngũ cốc, người nhận hoặc địa điểm giao hàng...
Càng lúc, chữ hình nêm càng phát triển mạnh và vượt ra khỏi mục đích thương mại. Cuối cùng, nó trở thành hệ thống chữ viết với lượng từ vựng gần như vô hạn và biến thành công cụ biểu đạt đắc lực trong nghệ thuật sáng tác thi ca của các thi nhân.
Sử thi thành văn đầu tiên của người Sumer có lẽ là Gilgamesh. Nó nhấn mạnh sự phức tạp của cảm xúc và xoay quanh các chủ đề mà hậu thế muôn đời vẫn khai thác tiếp là tình yêu, nỗi sợ hãi, sự hy vọng và cái c.hết. Thú vị là ngoài các câu chuyện, Gilgamesh còn như "sách giáo khoa về địa lý, tự nhiên và khoáng vật", lưu truyền chi tiết tri thức của người Sumer.
Từ nền văn minh Sumer, chữ hình nêm lan ra và trở thành ngôn ngữ chính của nhiều nền văn minh cổ đại khác. Trải qua hàng nghìn năm, nó trở thành nền tảng của nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Akkad, tiếng Babylon, tiếng Hittite và tiếng Ba Tư.
Số và toán
Bảng lượng giác Plimpton 322. Ảnh: Thecollector.com
Giống như với chữ hình nêm, người Sumer cũng phát minh ra số vì nhu cầu thương mại. Mặc dù, họ không phải là người đầu tiên tạo ra khái niệm số học, nhưng hệ số của họ lại là hệ lục thập phân (cơ số 60) thông dụng và được lưu truyền, áp dụng lâu dài, xa rộng.
Theo suy đoán của các nhà sử học và toán học, người Sumer sáng tạo ra cơ số 60 vì nó có số lượng ước số cao (60 là số nhỏ nhất chia hết cho tất cả các số từ 1 đến 6) và dễ dàng nhẩm bằng ngón tay. Trong toán học ngày nay, cơ số 60 vẫn là hệ số phổ biến, nằm trong hệ số đo đơn vị thời gian, góc độ, tọa độ.
Cũng từ cơ số 60 của người Sumer, các nhà toán học đời sau phát triển phương trình hình học, công thức số học. "Học trò" ấn tượng nhất của toán học Sumer có lẽ là người Babylon.
Họ để lại bảng lượng giác cổ quan trọng nhất thế giới, Plimpton 322, cái đóng vai trò t.iền đề cho định lý Pythagore mà ai ai cũng biết, a2 b2 = c2. Hoàn toàn chính xác khi khẳng định, người Sumer cổ đại chính là nhà phát minh ra toán học.
Dược
Con dấu của thầy thuốc Ur-Iugal-Edinna, năm 2000 TCN. Ảnh: Thecollector.com
Như hầu hết các nền văn minh ở thời còn mông muội, người Sumer cũng cho bệnh tật là sự trừng phạt từ các vị thần và để chữa trị, họ cầu nguyện, hiến tế. Tuy nhiên, vật được họ sử dụng để thực hiện các nghi lễ lại chính là phương thuốc.
Người Sumer có 2 kiểu thầy thuốc, Asu - người hành y, chữa trị bệnh tật cho người bệnh bằng kiến thức y học và Asipu - pháp sư xua đuổi tà ma, cầu khẩn thánh thần bằng phương thuốc. Mặc dù giữa cả 2 có sự đối chọi, nhưng đều chung mong muốn chữa bệnh, phụ trách cả điều trị thân thể lẫn tinh thần.
Theo các tư liệu cổ tìm được, dược liệu chính của các thầy thuốc Sumer là thảo mộc, khoáng chất và muối. Họ thường nghiền nát chúng rồi hòa với nước, bia, rượu hoặc mật ong để giúp người bệnh dễ nuốt.
Ngoài ra, các thầy thuốc Sumer còn đề cao sự sạch sẽ. Họ luôn khuyên bảo người bệnh vệ sinh thân thể, nơi ở thường xuyên và không bao giờ quên rửa sạch tay trước khi khám bệnh hoặc thực hiện các tiểu phẫu.
Phẫu thuật của người Sumer tiên tiến bất ngờ. Họ đã biết sử dụng ống thông để giải quyết các vấn đề về thoát dịch và đường tiết niệu. Một miếng đất sét được tìm thấy đã mô tả quá trình thoát dịch thừa từ gan cần mổ một vết giữa xương sườn thứ 3 và thứ 4. Một miếng khác thì hướng dẫn khoan hộp sọ để dẫn lưu áp xe.
Trong xã hội Sumer, thầy thuốc được kính trọng vô cùng. Đổi lại, họ rất có trách nhiệm và sẵn sàng chịu trách nhiễm khi sơ suất. Ngày nay, các bác sĩ đều thuộc nằm lòng Lời thề Hippocrates. Thú vị là, các nguyên tắc trong lời thề này đều gốc gác từ luật lệ và thực hành y học của người Sumer.
Nông nghiệp
Tranh phác họa canh tác nông nghiệp của người Sumer cổ đại. Ảnh: Thecollector.com
Địa bàn sinh cư của người Sumer là đồng bằng sông Tigris và Euphrates phì nhiêu, vô cùng thích hợp cho canh tác nông nghiệp quy mô lớn. Mỗi năm, mưa lũ lại khiến cho vùng đất bằng phẳng, rộng mênh mông này được bồi thêm một lớp phù sa nên ngày càng màu mỡ hơn.
Tuy nhiên, khoảng 5 - 6 nghìn năm trước, khí hậu nóng lên và thời tiết hiếm mưa. Để duy trì nông nghiệp, người Sumer buộc phải tìm ra cách phân phối nước tưới tiêu hợp lý và họ đã sáng tạo ra hệ thống thủy lợi tuyệt vời.
Xung quanh thành cổ Uruk của người Sumer, các nhà khảo cổ phát hiện nhiều vết tích của kênh, mương và hồ chứa nước. Người Sumer cũng chính là chủ nhân của cần kéo nước, thiết kế lợi dụng sức nặng của vật nặng buộc ở một đầu sào để dễ dàng nhấc thùng nước từ chỗ thấp lên cao.
Khoảng năm 1000 trước Công nguyên, người Sumer sáng tạo ra cày sử dụng sức kéo của trâu bò. Họ thậm chí biết buộc túi đựng hạt giống vào cày để bớt công gieo hạt.
Người Sumer là chủ nhân của nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại phát triển mạnh trong khoảng cuối thiên niên kỷ IV - thiên niên kỷ III trước Công nguyên. Họ được ghi nhận là một trong 4 nền văn minh sớm nhất và lớn nhất thế giới, cùng với Ai Cập cổ đại, Norte Chico và Lưu vực Sông Ấn.
Đang thơ thẩn tha mồi, cáo đỏ bị loài chim 'chúa tể bầu trời' bế thẳng lên không trung Biểu tượng đại bàng trong nhiều nền văn hóa đại diện cho sức mạnh, sự can đảm và tầm nhìn xa trông rộng. Nếu như sư tử là chúa sơn lâm, cá mập là sát thủ của biển khơi, cá sấu là vua đầm lầy, thì loài đại bàng vàng từ lâu cũng được mệnh danh là chúa tể bầu trời với sức...